Kinh Paritta - Kinh Thánh Hộ Trì - The Book of Protection
Dịch từ ngôn ngữ Pali, do Ngài Piyadassi Thera
Bài giới thiêm bởi Ngài V.F. Gunaratna © 1999
Kinh Văn: trích từ kinh điển
Việt dịch bài giới thiệu: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Hòa: Nguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho con và gia đình con đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.
Namo Buddhaya
I. Qui Y Tam Bảo (Sarana-gamana [1])
Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa
Homage to the Blessed One, the Consummate One,
the supremely Enlightened One
Buddham saranam gacchami Dhammam saranam gacchami Sangham saranam gacchami Dutiyampi Buddham saranam gacchami Dutiyampi Dhammam saranam gacchami Dutiyampi Sangham saranam gacchami Tatiyampi Buddham saranam gacchami Tatiyampi Dhammam saranam gacchami Tatiyampi Sangham saranam gacchami
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật. (Giáo Thọ Sư) Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp. (Giáo Thọ Sư) Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng. (Giáo Thọ Sư) Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật, lần thứ nhì. Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp, lần thứ nhì. Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng, lần thứ nhì. Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Phật, lần thứ ba. Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Pháp, lần thứ ba. Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Tăng, lần thứ ba.
Note
II. Mười Giới (Dasa-sikkhapada) [1]
1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
1. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.
2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
2. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.
3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
3. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.
4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
4. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối..
5. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
5. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say.
6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
6- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.
7. Nāccagītavāditavisū kadassanamālā gandhavilepanadhāranamaṇdaṇavibhū sa-naṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
7- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn và trang điểm thoa vật thơm, đồi phấn, đeo tràng hoa.
8. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
8- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
9- Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī
9 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa việc sử dụng sàng tọa cao rộng .
10. Jāta-rūparajatapaṭiggahaṇā veramaṇī
10 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa Kiêng tránh sự thọ nhận vàng bạc.
Note
III. Nam Tử Hỏi Ðạo (Samanera Pañha [1])
1) Ekaṃ nāma kiṃ? Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā.
1) Thế nào là một? - Mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn.[2]2) Dve nāma kiṃ? Nāmañca rūpañca
2) Thế nào là hai? - Danh và sắc.3) Tīṇi nāma kiṃ? Tisso vedanā.
3) Thế nào là ba? - Ba loại cảm thọ.4) Cattāri nāma kiṃ? Cattāri ariyasaccāni.
4)Thế nào là bốn? - Bốn Thánh đế.5) Pañca nāma kiṃ? Pañcupādānakkhandhā.
5)Thế nào là năm? - Năm thủ uẩn.6)Cha nāma kiṃ? Cha ajjhattikāni āyatanāni.
6)Thế nào là sáu? - Sáu nội xứ.7) Satta nāma kiṃ? Satta bojjhaṅgā.
7)Thế nào là bảy? - Bảy giác chi.8)Aṭṭha nāma kiṃ? Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
8)Thế nào là tám? - Thánh đạo tám ngành.9) Nava nāma kiṃ? Nava sattāvāsā.
9) Thế nào là chín? - Chín nơi cư trú của các loài hữu tình.10) Dasa nāma kiṃ? Dasahaṅgehi samannāgato “arahā”ti vuccatīti.
10)Thế nào là mười? - Vị nào có đủ mười đức tánh được gọi là vị A-la-hán.Notes
- 1.
- Also known as "Kumaro Pañha," Questions to be answered by the Young One. Khp. No. 4; cf. A. v. 50 ff; 55 ff. The novice referred to here is the seven-year old Sopaka. He was questioned by the Buddha. It is not a matter for surprise that a child of such tender years can give profound answers to these questions. One has heard of infant prodigies. (See Encyclopaedia Britannica. Inc., 1955, II. p. 389. Also read The Case for Rebirth, Francis Story, Wheel 12-13, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka.)
- 2.
- See notes at the end of the book.
IV. 32 Thể Trược (Dvattimsakara [1])
1- Kesā: Tóc mọc trên da đầu, 2- Lomā: Lông mọc toàn da thân, 3- Nakhā: Móng mọc 10 đầu ngón tay, 10 ngón chân, 4- Dantā: Răng mọc, 2 hàm răng trên và dưới, 5- Taco: Da bao bọc toàn thân, 6- Maṃsaṃ: Thịt dính với xương, 7- Nahāru: Gân có toàn thân, 8- Aṭṭhi: Xương các bộ phận, 9- Aṭṭhimiñjaṃ: Tủy trong ống xương, 10- Vakkaṃ: Thận , 11- Hadayaṃ: Trái tim, 12- Yakanaṃ: Gan, 13- Kilomakaṃ: Màng phổi, 14- Pihakaṃ: Bao tử, 15- Papphāsaṃ: Buồng phổi, 16- Antaṃ: Ruột già, 17- Antaguṇaṃ: Ruột non, 18- Udariyaṃ: Vật thực mới, 19- Karīsaṃ: Phẩn, 20- Mattaluṅgaṃ: Óc, 21- Pittaṃ: Mật, 22- Semhaṃ: Đàm, 23- Pubbo: Mủ, 24- Lohitaṃ: Máu, 25- Sedo: Mồ hôi, 26- Medo: Mỡ đặc, 27- Assu: Nước mắt, 28- Vasā: Mỡ lỏng, 29- Khelo: Nước miếng (bọt), 30- Singhāṇikā: Nước mũi, 31- Lasikā: Nước nhớt trong các khớp xương. 32- Muttaṃ: Nước tiểu.
- 1. Cīvare - Paṭisaṅghā yoniso, cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hiri-kopīna-ppaticchādanatthaṃ.
1. Y phục Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y phục Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Và chỉ để che thân Tránh những điều hổ thẹn. - 2. Piṇḍapāte - Paṭisaṅghā yoniso, piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, n’eva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā, brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādesāmi, yātrā ca me bhavissati, anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
2. Vật thực Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng vật thực Không phải để vui đùa Không ham mê vô độ Không phải để trang sức Không tự làm đẹp mình Mà chỉ để thân này Được bảo trì mạnh khoẻ Để tránh sự tổn thương Để trợ duyên Phạm hạnh Cảm thọ cũ được trừ Thọ mới không sanh khởi Và sẽ không lầm lỗi Ta sống được an lành. - 3. Senāsane - Paṭisaṅghā yoniso, senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissaya- vinodana-ppaṭisallānārāmatthaṃ.
3. Trú xứ Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng liêu thất Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Để giải trừ nguy hiểm Do phong thổ tứ thời Và chỉ với mục đích Sống độc cư an tịnh. - 4. Gilāna-paccaya-bhesajje - Paṭisaṅghā yoniso, gilānapaccaya-bhesajjaparikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvādeva, uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ, vedanānaṃ paṭighātāya, abyābajjha-paramatāya.
4. Dược Phẩm Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y dược Dành cho người bệnh dùng Để ngăn ngừa cảm thọ Tàn hại đã phát sanh Được hoàn toàn bình phục. Note
- 1.
- M. i. p. 10; cf. A. ii. 40; M. 53.
Discourses
1. Mười Pháp Quán Tưởng Của Người Xuất Gia (Dasa-dhamma sutta [1])
- [pts][than][piya][olds] Evaṃ me sutaṃ:|| ||
Như vầy tôi nghe: - Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati.|| ||
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). - Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi:|| || "Bhikkhavo" ti.|| || "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ.|| || Bhagavā etad avoca:||
Chính tại nơi đó Đức Thế Tôn gọi các tỳkhưu rằng:Này các tỳkhưu - . Dasayime bhikkhave dhammā pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbā. Katame dasa?
Này các Tỷ-kheo, có mười pháp này, vị xuất gia phải luôn luôn quán sát. Thế nào là mười ? - 1- "Vevaṇṇiyamhi ajjhupagato"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
1) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Ta nay đi đến tình trạng là người không có giai cấp" (mất hết giai cấp). - 2- "Parapaṭibaddhā me jīvikā"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
2) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Đời sống của ta tùy thuộc vào người khác." - 3- "Añño me ākappo karaṇīyo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
3) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Nay cử chỉ uy nghi của ta cần phải thay đổi ! " - 4- "Kacci nu kho me attā sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
4) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Không biết tư ngã có chỉ trích ta về giới hạnh không ? " - 5- "Kacci nu kho maṃ anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
5) Vị xuất gia cần luôn luôn quán sát : "Không biết các đồng Phạm có trí, sau khi tìm hiểu, có chỉ thích ta về giới hạnh không ? " - 6- "Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhā-vo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
6) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Mọi sự vật khả ái, khả ý của ta bị đổi khác, bị biến hoại". - 7- "Kammassako’mhi kammadāyako kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
7) Vị xuất gia cần phải quán sát : "Ta là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. là thai tạng của nghiệp, là bà con của nghiệp. là chỗ quy hướng của nghiệp ; phàm nghiệp gì ta sẽ làm, thiện hay ác ta sẽ thừa tự nghiệp ấy". - 8- "Kathaṃ bhūtassa me rattindivā vītivattantī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
8) Vị xuất gia cần phải luôn quán sát : "Đêm ngày trôi qua bên ta và nay ta đã thành người như thế nào ? - 9- "Kacci nu kho ahaṃ suññāgāre abhiramāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
9) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có cố gắng hoan hỷ trong ngôi nhà trống không hay không ? " - 10- "Atthi nu kho me uttarimanussadhammo, alamariyañāṇadassanaviseso adhigato, yenāhaṃ pacchime kāle sabrahmacārīhi puṭṭho, na maṅku bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
10) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có chứng được pháp Thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh không, để đến những ngày cuối cùng, các đồng Phạm hạnh có hỏi, ta sẽ không có xấu hổ ? " - Ime kho bhikkhave dasa dhammā||
Này các Tỷ-kheo, mười pháp này, vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát. - pabba-jitena abhiṇhaṃ pacc'avekkhitabbā" ti.|| ||
Thế Tôn đã nói. Những vị tỳ khưu vui mừng trước những lời của Đức Thế Tôn. Notes
Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ-Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc gần thành Xá-Vệ (Sāvatthi). Khi ấy, có vị Trời chiếu hào-quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ-Viên sáng ngời rực-rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng. Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:1)Bahū devā manussā ca, Maṅgalāni acintayuṃ, Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ, Brūhi maṅgalamuttamaṃ.
Tất cả Chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng Bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:2)Asevanā ca bālānaṃ, Paṇḍitānañca sevanā, Pūjā ca pūjanīyānaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ. Hai: tư cách thân-cận các bậc Trí tuệ. Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao-thượng..3)Paṭirūpadesavāso ca, Pubbe ca katapuññatā, Attasammāpaṇidhi ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách ở trong nước nên ở. Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước. Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.4) Bāhusaccañca sippañca, Vinayo ca susikkhito, Subhāsitā ca yā vācā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng. Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia. Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín-chắn. Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật, Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.5) Mātāpitu upaṭṭhānaṃ, Puttadārassa saṅgaho, Anākulā ca kammatā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ. Hai: nết hạnh phụng sự Cha. Ba: sự tiếp độ Vợ Con. Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.6) Dānañca dhammacariyā ca, Ñātakānañca saṅgaho, Anavajjāni kammāni, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh bố thí. Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp. Ba: sự tiếp độ quyến thuộc. Bốn: những nghề vô tội. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.7) Āratī viratī pāpā, Majjapānā ca saññamo, Appamādo ca dhammesu, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi. Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu. Ba: sự không dể duôi Phật Pháp. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.8) Gāravo ca nivāto ca, Santuṭṭhī ca kataññutā, Kālena dhammassavanaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính. Hai: nết hạnh khiêm nhượng. Ba: tri túc đến của đã có. Bốn: nết hạnh biết đền ơn người. Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp. Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.9) Khantī ca sovacassatā, Samaṇānañca dassanaṃ, Kālena dhammasākacchā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự nhịn nhục. Hai: nết hạnh người dễ dạy. Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-Môn. Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.10. Tapo ca brahmacariyañca, Ariyasaccāna dassanaṃ, Nibbānasacchikiriyā ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác. Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng. Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu-đế. Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.11) Phuṭṭhassa lokadhammehi, Cittaṃ yassa na kampati, Asokaṃ virajaṃ khemaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian. Hai: không có sự uất ức. Ba: dứt khỏi tình dục. Bốn: lòng tự tại. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.12) Etādisāni katvāna, Sabbatthamaparājitā, Sabbattha sotthiṃ gacchanti, Tantesaṃ maṅgalamuttaman’ti.
Tất cả Chư Thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên nầy! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.Notes
Dựa theo chú giải nói về nhân duyên cớ có bài kinh này như sau: Thành phố Vesali bị nạn đói hoành hành, gây chết chóc, đặc biệt là đối với những người dân nghèo. Do sự hiện diện của những xác chết đang phân hủy, các linh hồn ma quỷ bắt đầu ám ảnh thành phố; sau đó là một trận dịch hại. Bị kìm hãm bởi ba nỗi sợ hãi về nạn đói, ma quỷ và dịch bệnh, người dân đã tìm đến Đức Phật khi đó đang sống tại Rajagaha xin được giúp đỡ.
Đức Phật đã đền thành phố Vesali, theo sau là một số lượng lớn chư Tăng, trong đó có Tôn giả Ananda, đệ tử thị giả của Ngài. Với sự xuất hiện của Đức Phật, có những cơn mưa lớn cuốn trôi những xác chết đang bị phân hủu. Bầu không khí trở nên trong sạch, thành phố sạch sẽ.
Ngay sau đó, Đức Phật đã giao bài Châu Báu này (kinh Ratana [2]) cho Đại đức Ananda, và chỉ dẫn cho Ananda về cách cùng với những người dân Licchavi đi quanh thành phố và cùng đọc tụng bài kinh này như một dấu hiệu bảo vệ người dân Vesali. Tôn giả Ananda làm theo lời chỉ dẫn, và rưới nước thánh từ bát khất thực của chính Đức Phật. Kết quả là các linh hồn ma quỷ bị xua đuổi, dịch bệnh giảm bớt. Sau đó, Tôn giả Ananda cùng với những người dân của Vesali trở lại Đại sảnh đường nơi Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã tập họp để chờ Ngài đến. Tại đó, Đức Phật đã cùng một bài Kinh Châu Báu tụng đọc cho đại chúng: [3]
1. Yānīdha bhūtāni samāgatāni Bhummāni vā yāni va antalikkhe Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu Atho pi sakkacca sunantu bhāsitam
Hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây. Cầu xin tất cả hạng Bhūta ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính mà nghe Phật ngôn.2. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe Mettam karotha mānusiyā pajāya Divā ca ratto ca haranti ye balim Tasmā hi ne rakkhatha appamattā
Tất cả chư bhūta được nghe kinh PARITTA rồi, nên mở lòng Bác ái đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí đêm ngày không dứt.3. Yam kiñci vittam idha vā huram vā Saggesu vā yam ratanam panītam Na no samam atthi tathāgatena Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian nầy, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên Thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.4. Khayam virāgam amatam panītam Yadajjhagā sakyamuni samāhito Na tena dhammena sam’atthi kiñci Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Đức Giáo-chủ SAKYAMUNI là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là Pháp bất diệt, là Pháp cao thượng. Chẳng có chi sánh bằng Pháp ấy. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.5. Yam buddhasettho parivannayi sucim Samādhi-mānantari-kañña-māhu Samādhinā tena samo na vijjati Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi Pháp Thiền định (SAMĀDHI) là Pháp trong sạch. Các bậc Trí tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh Định là Pháp sanh quả theo thứ tự. Thiền định khác chẳng thể sánh bằng. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.6. Ye puggalā attha satam pasatthā Cattāri etāni yugāni honti Te dakkhineyyā sugatassa sāvakā Etesu dinnāni mahapphalāni Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức đã ngợi khen, các bậc ấy đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức SUGATO [9], các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí, của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng. Những sự bố thí đến các bậc (DAKKHIṆEYYA PUGGALĀ) [10], là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.7. Ye suppayuttā manasā dalhena Nikkāmino gotama sāsanamhi Te pattipattā amatam vigayha Laddhā mudhā nibbutim bhuñjamānā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Các bậc Thánh nhơn trong giáo Pháp của Đức Chánh-Biến-Tri hiệu GOTAMA [11], đã hành theo lẽ chánh rồi có lòng bền chắc, chẳng còn ái dục. Các bậc Thánh nhơn ấy đã chứng quả A-LA -HÁN, đã nhập Niết-bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo-quả rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.8. Yathindakhīlo pathavim sito siyā Catubbhi vātehi asampakampiyo Tathūpamam sappurisam vadāmi Yo ariyasaccāni avecca passati Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió 4 phương cũng không lay động, thế nào. Người hay suy xét thấy các Pháp Diệu-Đế, Như Lai gọi người ấy là bậc Thiện Trí Thức, hạng không tham nhiễm các Pháp thế gian, ví như cột cừ kia vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.9. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti Gambhīrapaññena sudesitāni Kiñcāpi te honti bhusappamattā Na te bhavam atthamam ādiyanti Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Các bậc Thánh nhơn thấy rõ các Pháp Diệu-Đế. Mà Đức Như Lai có Trí tuệ thậm-thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy dầu có dể duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi quá 7 kiếp. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.10. Sahāvassa dassana sampadāya Tayassu dhammā jahitā bhavanti Sakkāyaditthi vicikicchitañ ca Sīlabbatam vāpi yadatthi kiñci Catūhapāyehi ca vippamuto Cha cābhithānāni abhabbo kātum Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatti hotu
Bậc được chứng đạo-quả Tu-Đà-Hườn, thì đã dứt khỏi 3 phép chướng ngại thường có là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ. Bậc Tu-Đà-Hườn đã thoát khỏi cả 4 đường dữ, không còn phạm 6 điều ác, là 5 tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại-đạo. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.11. Kiñcāpi so kammam karoti pāpakam Kāyena vācā uda cetasā vā Abhabbo so tassa paticchādāya Abhabbatā ditthapadassa vuttā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Nếu bậc Tu-Đà-Hườn vô tâm phạm điều tội lỗi do thân, khẩu, ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm. Nết hạnh của bậc đã thấy đạo quả Niết-bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà Đức Phật đã giảng dạy rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.12. Vanappagumbe yathā phussitagge Gimhānamāse pathamasmim gimhe Tathūpamam dhammavaram adesayi Nibbānagāmim paramam hitāya Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Pháp cao thượng mà đức Chánh-Biến-Tri đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết-bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạn. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.13. Varo varaññū varado varāharo Anuttaro dhammavaram adesayi Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Đức Chánh-Biến-Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông Pháp cao thượng, Ngài thí Pháp cao thượng, Ngài đem đến Pháp cao thượng. Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.14. Khīnam purānam navam natthi sambhavam Viratta cittā āyatike bhavasmim Te khīnabījā avirūlhicchandā Nibbanti dhīrā yathā’yam padīpo Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu
Nghiệp cũ của các bậc Thánh nhơn đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh. Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nãn trong việc thoát sanh. Hạt giống đã đoạn tận, lòng dục không tăng trưởng. Là bậc có Trí tuệ thường được viên tịch cũng như ngọn đèn tắt vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.15. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo Chủ đã được chứng quả giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.16. Yanīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.17. Yānīdha bhūtāni sāmāgatāni, Bhummāni vā yāni va antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.
Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Tăng đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.Notes
- 1.
- Khp. No. 6; Sn. 39
- 2.
- Ratana means precious jewel. Here the term is applied to the Buddha, Dhamma, and Sangha.
- 3.
- KhpA. 161.
- 4.
- Literally, in the Buddha is this precious jewel.
- 5.
- Literally, in the Dhamma is this precious jewel.
- 6.
- Literally, in the Sangha is this precious jewel.
- 7.
- Obtained without payment; "avyayena," KhpA. I., 185.
- 8.
- The reason why it is stated that there will be no eighth existence for a person who has attained the stage of sotapatti or the first stage of sanctity is that such a being can live at the most for only a period of seven existences in the realm of sense spheres.
- 9.
- Abhithanani; i. matricide, ii. patricide, iii. the murder of arahants (the Consummate Ones), iv. the shedding of the Buddha's blood, v. causing schism in the Sangha, and vi. pernicious false beliefs (niyata micca ditthi).
- 10.
- He is a sotapanna, stream-enterer, one who has attained the first stage of sanctity. Also see Notes at the end of the book.
- 11.
- The last three stanzas were recited by Sakka, the chief of Devas (gods), KhpA. 195.
4. Từ Bi Kinh (Karaniya Metta Sutta [1])
Trong khi Đức Phật ở tại Savatthi, một nhóm tỳ khưu, sau khi nhận được các đề mục thiền định, đã đến khu rừng để an cư mùa mưa (vassana). Các vị thần cây sống trong khu rừng này lo lắng khi họ đến, vì họ phải xuống khỏi gốc cây và trú ngụ trên mặt đất. Tuy nhiên, các vị thần hy vọng các vị tỳ khưu sẽ sớm ra đi; nhưng nhận thấy rằng các vị tỳ khưu sẽ ở lại suôt mùa an cư vassana trong ba tháng, nên các vị thần ban đêm đã quấy rối họ bằng nhiều cách khác nhau với ý định xua đuổi các vị tỳ khưu.
Không thể sống trong những điều kiện như vậy, các vị tỳ khưu đã đến gặp Đức Phật trình bày những khó khăn của họ. Đức Phật đã hướng dẫn họ tụng đọc bài kinh Từ Bi và khuyên họ trở về tụng đọc bài kinh này để bảo vệ họ.
Các vị tỳ khưu quay trở lại khu rừng, và thực hành việc trì tụng kinh Từ Bi ban trải tràn ngập khắp bầu không khí với những lòng từ bi của họ. Các vị thần bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của tâm từ này, do đó đã cho phép họ thiền định trong thanh tịnh.
Bài kinh được chia thành hai phần. Phần đầu nêu chi tiết về tiêu chuẩn đạo đức cần có của một người mong muốn đạt được Thanh tịnh và bình yên, và phần thứ hai là phương pháp thực hành rải tâm từ. [2]
1) Karaṇīyamatthakusalena, Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca, Sakko ujū ca suhujū ca, Suvaco cassa mudu anatimānī.
1) Do sự nào mà bậc Thánh nhơn được Giác Ngộ các Pháp yên lặng là Niết-bàn, người rõ biết trong việc hữu ích nên hành sự ấy, người ấy là bậc dõng cảm thân khẩu ý chân chánh và trong sạch, là người dễ dạy, có tánh nết nhu thuận, không ngã mạn thái quá.2) Santussako ca subharo ca, Appakicco ca sallahukavutti, Santindriyo ca nipako ca, Appagabbho kulesu ananugiddho.
2) Là người tri túc dễ nuôi, là người ít bận việc, và thân tâm nhẹ nhàng, là người có lục căn thanh tịnh, có nhiều Trí tuệ, là người có liêm sĩ, không quyến luyến theo thân bằng quyến thuộc.3) Na ca khuddaṃ samācare kiñci, Yena viññū pare upavadeyyuṃ, Sukhino vā khemino hontu, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
3) Các bậc Thiện Trí Thức hằng chê bai các chúng sanh tạo những nghiệp không nên làm, là nghiệp xấu xa hèn hạ dầu là nhỏ nhen chút ít mà nên rải lòng Bác ái đến các hạng chúng sanh như vầy:4) Ye keci pāṇabhūtatthi, Tasā vā thāvarā vā anavasesā, Dīghā vā ye mahantā vā, Majjhimā rassakā aṇukathūlā.
4) Cầu cho tất cả chúng sanh đều được an vui thong thả, thân tâm được nhiều hạnh phúc, tất cả chúng sanh không dư sót, dầu là chúng sanh có sự kinh sợ, là còn lòng ham muốn, hoặc là bậc Hiền triết đã dứt lòng ham muốn.
5) Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā, Ye ca dūre vasanti avidūre, Bhūtā vā sambhavesī vā, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
5) Chúng sanh nào có thân hình dài hoặc lớn, có thân hình bậc trung hoặc vắn, có thân hình gầy hoặc béo, chúng sanh mà ta đã thấy hoặc không thấy được, chúng sanh ngụ nơi xa hoặc gần, đã sanh ra rồi hoặc còn đang tìm nơi thọ sanh.6) Na paro paraṃ nikubbetha, Nātimaññetha katthaci naṃ kiñci, Byārosanā paṭighasaññā, Nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
6) Chúng sanh chẳng nên dọa hẩm làm khổ chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ chút ít kẻ khác trong nơi nào cả, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ, Āyusā ekaputtamanurakkhe, Evampi sabbabhūtesu, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
7) Người mẹ thà liều chết để bảo dưỡng con đẻ là con một, là dám bỏ sanh mạng trong sự bảo dưỡng con thế nào, Người nên niệm lòng Bác ái vô lượng vô biên để rải đến tất cả chúng sanh cũng như thế ấy.8) Mettañca sabbalokasmiṃ, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ, Uddhaṃ adho ca tiriyañca, Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ
8) Người nên niệm tâm Bác ái vô lượng vô biên, là Pháp không nóng giận, không bất bình, không thù oán, không bạn nghịch, để rải trong tất cả thế giới, là rải bên trên, bên dưới, bên ngang và khoảng giữa.9) Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā, Sayāno vā yāvatassa vigatamiddho, Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, Brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu.
9) Người niệm lòng Bác ái ấy dầu đứng, đi, ngồi hoặc nằm, là người đã dứt bỏ sự hôn-trầm, là người chẳng còn ngủ mê, đến đâu nên thành tâm thường niệm lòng Bác ái đến đó, các bậc trí thức gọi những tư cách ấy, là Pháp vô lượng tâm trong Phật Pháp.10) Diṭṭhiñca anupagamma, Sīlavā dassanena sampanno, Kāmesu vineyya gedhaṃ, Na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti.
10) Người có vô lượng tâm Bác ái, không tà kiến, là người có Trì Giới, có chánh kiến, là người đắc Tu-Đà-Hườn đạo, đã dứt bỏ sự say mê theo ngũ trần rồi.5. Kinh Hộ Trì Các Uẩn (Khandha Paritta )
- Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhū ahinā daṭṭho kālakato hoti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena Bhagavā ten’upasaṅkamiṁsu. Upasaṅkamitvā Bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū Bhagavantaṁ etadavocuṁ.
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn chết. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: - Idha bhante Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhu ahinā daṭṭho kālakato’ti.
-" Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn đã mệnh chung." - Naha nūna so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sacehi so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, nahi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Katamāni cattāri ahirājakulāni? Virūpakkhaṁ ahirājakulaṁ, Erāpathaṁ ahirājakulaṁ, Chabyāputtaṁ ahirājakulaṁ, Kaṇhā gotamakaṁ ahirājakulaṁ. Naha nūna so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sace hi so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, na hi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Anujānāmi bhikkhave imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena pharituṁ attaguttiyā attarakkhāya attaparittāyā’ti. Idam’avoca Bhagavā, Idaṁ vatvā Sugato athāparaṁ etada’voca Satthā.
Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn ? -Gia đình vua các loài rắn Virùpakkha, -Gia đình vua các loài rắn Eràpattha, -Gia đình vua các loài rắn Chabyàputta, -Gia đình vua các loài rắn Kanhàgotamaka; Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở. - 1. Virūpakkehi me mettaṁ – Mettaṁ Erāpathehi me
Chabyāputtehi me mettaṁ – Mettaṁ Kaṇhāgotamakehi ca
2. Apādakehi me mettaṁ – Mettaṁ dipādakehi me
Catuppadehi me mettaṁ – Mettaṁ bahuppadehi me
3. Mā maṁ apādako hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi dipādako
Mā maṁ catuppado hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi bahuppado
4. Sabbe sattā sabbe pāṇā – Sabbe bhutā ca kevalā
Sabbe bhadrāni passantu – Mā kañci pāpamāgamā
Ta hãy có từ tâm
Với Virùpakkha,
Ta hãy có từ tâm
Với Eràpatha,
Ta hãy có từ tâm
Với Chabyaputta,
Ta hãy có từ tâm
Với Kanhàgotamaka,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,
Mong rằng loài không chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài hai chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài bốn chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài nhiều chân
Không có làm hại ta,
Mọi chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác. Appamāṇo Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho. Pamāṇavantāni siriṁsapāni ahi vicchikā satapadī uṇṇānābhī sarabhū mūsikā. Katā me rakkhā. Katā me parittā. Paṭikkamantu bhūtāni. So’haṁ namo Bhagavato namo sattannaṁ Sammā Sambuddhānan’ti.
Đức Phật là vô lượng, Pháp là vô lượng, Chúng Tăng là vô lượng, Có lượng là các loài bò sát, Các loài rắn, Các con bò cạp, Các con một trăm chân, Các loại nhện giăng tơ, Các con thằn lằn và các loài chuột. Ta đã làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở, Mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đảnh lễ đức Thế Tôn. Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng GiácKinh Vua Các Loài Rắn - Ahina Sutta(AN IV.67
6. Bài giảng về Ưu điểm của Lòng Từ (Mettanisamsa Sutta)
- Tôi nghe như vầy: Vào một dịp nọ, Đức Thế Tôn đang sống gần thành Xá Vệ (Savatthi) tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) tại tu viện của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Sau đó, ông nói với các vị Tỳ Khưu: "Này các Tỳ Khưu ." - "Dạ, Bạch Đức Thế Tôn,” các Tỳ kheo đáp lại. Sau đó Đức Thế Tôn nói như sau:
- "Này các Tỷ Kheo, có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng. Mười một là gì?
- 1) Sukhaṁ supati. 2) Sukhaṁ paṭibujjhati. 3) Na pāpakaṁ supinaṁ passati. 4) Manussānaṁ piyo hoti. 5) Amanussānaṁ piyo hoti. 6) Devatā rakkhanti. 7) Nâssa aggi vā visaṁ vā satthaṁ vā kamati. 8) Uttariṁ appaṭivijjhanto brahma,lokûpago hoti.
Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng được loài Người ái mộ, được phi nhân ái một, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám ; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả) ; được sanh lên Phạm thiên giới. - có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng.
- Thế Tôn nói như vậy. Những vị Tỳ Kheo hoan hỉ trước những lời của Đức Thế Tôn.
7. Ưu Điểm Của Tình Bạn (Mittanisamsa)
Mười câu kệ này kể lại những tác dụng hữu ích của tình bạn, được tìm thấy trong Magapakkha (Temiya) Jataka, vol. vii. Số 538.
1) Pahūta-bhakkho bhavatī - Vippavuttho sakā gharā
Bahū nam upajīvantī - Yo mittānam na dūbhatī
1) Người giữ tình bạn chân chính (không phản bội bạn bè), bất cứ khi nào anh ta đi xa khỏi nhà của mình, sẽ nhận được sự hiếu khách dồi dào. Nhiều người sẽ được sống nhờ anh ta.2) Yam yam janapadam yātī - Nigame rājadhāniyo
Sabbattha pūjito hoti - Yo mittānam na dūbhati
2) Người giữ tình bạn chân chính, dù ở bất kỳ quốc gia, làng mạc hay thị trấn nào mà anh ta đến thăm, sẽ được tôn kính.3) Nāssa corā pasahanti - Nātimaññeti khattiyo
Sabbe amitte tarati - Yo mittānam na dūbhati
3) Người giữ tình bạn chân chính - những tên cướp sẽ không chế ngự được anh ta. Những người có địa vị sẽ không coi thường anh ta. Anh ta sẽ chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.4) Akkuddho sagharam eti - Sabhāya patinandito
Ñātīnam uttamo hoti - Yo mittānam na dūbhati
4) Người giữ tình bạn chân chính, trở về nhà với cảm giác thân thiện, vui vẻ trong đám đông của mọi người, và trở thành người đứng đầu trong số họ hàng của mình.5) Sakkatvā sakkato hoti - Garu hoti sagāravo
Vanna-kittibhato hoti - Yo mittānam na dūbhati
Người giữ tình bạn chân chính, hiếu khách với người khác, đến lượt mình, sẽ nhận được sự hiếu khách. Tôn trọng người khác sẽ nhận được sự tôn trọng. Anh ấy có được lời khen ngợi và sự nổi tiếng.6) Pūjako labhate pūjam - Vandako pati-vandanam
Yaso kittiñca pappoti - Yo mittānam na dūbhati
Người giữ tình bạn chân thành, khi cho đi, cùng một lúc, nhận được quà. Tôn kính người khác, cùng một lúc chính mình cũng được tôn kính. Anh ta đạt được sự thịnh vượng và nổi tiếng.7) Aggi yathā pajjalati - Devatā’va virocati
Siriyā ajahito hoti - Yo mittānam na dūbhati
7) Người giữ tình bạn chân chính, tỏa sáng (trong vinh quang) như ngọn lửa, và rạng rỡ như một vị thần. Không bao giờ sự thịnh vượng sẽ từ bỏ anh ta.8) Gāvo tassa pajāyanti - Khette vuttham virūhati
Puttānam phalamasnāti - Yo mittānam na dūbhati
8) Người giữ tình bạn chân chính, sẽ có nhiều gia súc sinh sản cho anh ta. Những gì được gieo trên đồng ruộng sẽ nảy nở. Người ấy được hưởng quả phước.9) Darito pabbatāto vā - Rukkhāto patito naro
Cuto patittham labhati - Yo mittānam na dūbhati
9) Người giữ tình bạn chân chính, nếu anh ta rơi từ giốc thẳng, núi hoặc cây, anh ta sẽ được bảo vệ (sẽ không bị tổn hại).10) Virūlha-mūla-santānam - Nigro-dhamiva māluto
Amittā nappa-sahanti - Yo mittānam na dūbhati
10) Người giữ tình bạn chân chính không thể bị kẻ thù lật đổ như khi cây đa có rễ sâu cũng không thể bị gió quật đổ.8. Kinh Khổng Tước (Mora Paritta [1])
1. Udet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu divasaṁ.
1.Ở đó có người với sắc màu vàng chói, người có tầm nhìn, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi ngưỡng mộ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống ngày này an toàn trọn ngày2. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā.
Imaṁ so parittaṁ katvā moro carati esanā.
2. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật, những người đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu hiểu tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), giác ngộ của họ (bốn Đạo và bốn Quả). Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ.
Sau khi đọc lên chú bảo hộ này, chim khổng tước đi kiếm mồi..3. Apet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu rattiṁ.
3. Ở đó, người với sắc màu vàng chói, người có thị giác, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất. Con tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống an toàn trọn đêm.4. Ye brāhmaṇā vedagu sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu. Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā Imaṁ so parittaṁ katvā moro vāsamakappayī’ti.
4. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu suốt tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), đến sự giác ngộ của họ. Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ. Sau khi thực hiện sự bảo vệ này, con công đã trải qua cuộc sống của mình hạnh phúc.Notes - HỘ CHÚ KHỔNG TƯỚC
- 1.
- Bản tiếng Pali-Anh: Moraparitta, Paritta Chanting, Wat Bukit Perak.
Việt dịch: Tống Phước Khải ii. 23; No. 159. - 2.
- Udetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.
Apetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayīti.
NGHĨA BÀI CHÚ
Kìa Ngài vừa mới mọc, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn ngày luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.
Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công bay đi tìm mồi.
Kìa Ngài đang lặn xuống, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn đêm luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.
Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công nghỉ ngủ yên lành tại nơi trú ngụ.
GHI CHÚ:
Bài hộ chú này được Đức Phật Thích Ca thuyết giảng khi có một vị Tỳ Kheo trong Tăng Đoàn bị quyến rũ bởi nữ sắc.
Đức Phật kể lại tiền kiếp của mình từng là chim công vàng sống trên đỉnh núi. Mỗi sáng trước khi đi tìm mồi, chim công đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Buổi chiều về, trước khi vào tổ, chim công lại đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Đã có nhiều thợ săn đặt bẫy bắt chim công, nhưng do oai lực của bài chú chim công không thể rơi vào bẫy. Mãi về sau, hôm nó vào sáng sớm, chưa kịp trì chú thì công vàng đã bị một công mái - do một thợ săn sắp đặt - quyến rũ và bị rơi vào bẫy. Thợ săn mang chim công về cho vua, chim công đã kể cho vị vua này nghe tiền kiếp của mình cũng từng là một vị vua, để xác thực lời nói, chim công bảo rằng bên dưới hồ nước của hoàng cung trước có chôn một cỗ xe và bảo vua đào lên sẽ rõ. Mọi việc sau đó đúng như lời chim công nói và vua đã thả chim công trở về núi.
Theo truyền thống Phật Giáo Theravada, sáng sớm khi mặt trời mọc thì trì tụng phần đầu của bài chú, buổi chiều khi mặt trời lặn thì trì tụng phần sau. Công năng của bài chú được tin rằng sẽ giúp tránh được những hiểm họa và cạm bẫy, còn nếu bị rơi vào cạm bẫy thì sẽ được giải thoát an toàn. 9. Kinh Nguyệt Thiên Tử - Candima Sutta (Canda Paritta [1])
Trong vũ trụ học của Ấn Độ, các hành tinh chính được coi là các vị thần hoặc các vị thần. Đôi khi quan điểm này, mở rộng đến cách nói thông thường của ngày nay, ví dụ, "thần mưa", "thần mặt trời", v.v. Đức Phật không có khuynh hướng bình luận về những quan điểm này, và vì vậy Ngài chỉ bằng lòng với việc chỉ bày tỏ thông điệp của Giáo pháp qua thuyết chiết trung của những quan điểm này.
Tôi nghe như vầy: Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ). Lúc bấy giờ, Thiên tử Candima bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Candima, tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:
i. Đảnh lễ đấng Giác Ngộ, Bậc Anh Hùng muôn thuở, Ngài là bậc Giải Thoát, Thoát ly thật viên mãn, Còn con bị trói buộc, Hãy cho con quy ngưỡng.
Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:
ii Canda đã quy y, Như Lai, bậc La-hán, Ràhu, hãy thả nó, Vì chư Phật thương đời.
Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:
iii Vì sao, như hốt hoảng, Ràhu thả Canda, Ông đến, lòng run sợ, Ông đứng, tâm kinh hoàng?
iv Đầu con bể thành bảy, Đời con không hạnh phúc, Với lời kệ đức Phật, Nếu không thả Canda.
Evaṁ me sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Candimā devaputto Rāhunā asurindena gahito hoti. Atha kho Candimā devaputto Bhagavantaṁ anussaramāno tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi.
Namo te Buddha vīra’tthu – Vippamutto’si sabbadhi Sambādhapaṭipanno’smi – Tassa me saraṇaṁ bhavā’ti
Atha kho Bhagavā Candimaṁ devaputtaṁ ārabbha Rāhuṁ asurindaṁ gāthāya ajjhabhāsi.
Tathāgataṁ Arahantaṁ – Candimā saraṇaṁ gato Rāhu candaṁ pamuñcassu – Buddhā lokānukampakā’ti
Atha kho Rāhu asurindo Candimaṁ devaputtaṁ muñcitvā taramānarūpo yena Vepacitti asurindo ten’upasaṅkami. Upasaṅkamitvā saṁviggo lomahaṭṭajāto ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho Rāhuṁ asurindaṁ Vepacitti asurindo gāthāya ajjhabhāsi.
Kinnu santaramāno’va – Rāhu, Candaṁ pamuñcasi? Saṁviggarūpo āgamma – Kinnu bhīto’va tiṭṭhasī’ti?
Sattadhā me phale muddhā – Jīvanto na sukhaṁ labhe Buddhagāthābhigīto’mhi – No ce muñceyya Candiman’ti.Xem Tiếp Phần I I