Thứ Hai, 5 tháng 9, 2022

Kinh Paritta - Kinh Thánh Hộ Trì

 Kinh Paritta - Kinh Thánh Hộ Trì - The Book of Protection 

 Dịch từ ngôn ngữ Pali, do Ngài Piyadassi Thera 

Bài giới thiêm bởi Ngài  V.F. Gunaratna © 1999

Kinh Văn: trích từ kinh điển 

  Việt dịch bài giới thiệu: Minh Hạnh và Nguyễn Văn HòaNguyện đem công đức này hồi hướng đến tứ ân phụ mẫu, đến chư thiên và tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Nguyện cho con và gia đình con đời này và mãi mãi những đời sau có chánh tín và chánh trí.

Namo Buddhaya


Nguyện cầu hòa bình ban phước cho vùng đất này;
Nguyện cầu mọi người thoát khỏi bệnh tật và chiến tranh;
Nguyện cầu mùa màng bội thu, và tăng sản lượng ngũ cốc;
Nguyện cầu mọi người an vui trong công bình;
Nguyện cầu không có tà kiến len vào tâm trí bạn;
Nguyện cầu tất cả những suy nghĩ của bạn đều được và dẫn dắt
đến đạo quả dựa trên tôn giáo của bạn.

— Thành tựu giả vĩ đại Yogi Tây Tạng, Milarepa

Với lòng biết ơn và xin hiến dâng tất cả
đến cha mẹ đã mất của tôi
('Matapitaro pubbacariyati vuccare')

— Anguttara Nikaya, ii. p. 70

Lời Giới Thiệu  

Kinh Thánh Hộ Trì, là tập hợp các bài giảng được chọn lọc của Đức Phật do các vị thầy thời xưa biên soạn, ban đầu được dùng như một cẩm nang cho người mới xuất gia tụng đọc. Ý tưởng là những người mới tu tập không có khả năng nghiên cứu phần lớn của "Tạng Kinh" (sutta pitaka) ít nhất cũng nên tụng đọc Kinh Thánh Hộ Trì. Ngay cả ngày nay cũng như vậy. Hai mươi bốn bài kinh được chọn từ trong năm bộ Nikayas hoặc Bộ sưu tập gốc bằng tiếng Pali có chứa các bài kinh của Đức Phật. Thực tế là những bài kinh dành cho người mới tu rõ ràng là các đoạn văn bắt buộc tụng đọc trước các bài giảng.

Giới luật là mười giới, và không phải năm giới, là những nguyên tắc cơ bản của người cư sĩ tại gia. Các Sadi phải tuân giữ mười giới. Tiếp theo là "Những câu hỏi cần được trả lời bởi một Sadi" và "Ba mươi hai thể trược" thực sự là một loại thiền định về các bộ phận cấu thành của cơ thể một người. Sau đó là "Bốn lần quán chiếu của một nhà sư," và cuối cùng là "Mười điều cần thiết (Dhammas)" được phản ánh bởi một người đã xuất gia để sống cuộc đời thánh thiện. Các bài thuyết trình tiếp theo. Nếu một người kiên nhẫn và chăm chỉ nghiên cứu những bài giảng này, người đó có thể thu thập được kiến thức tốt về những điều cốt yếu và giáo lý nền tảng của Đức Phật.

Kinh Trường Bộ, Kinh Đại Hội (Maha-samaya Sutta) và kinh Atanatiya đặt ở đoạn cuối cuốn sách xem có vẻ như không có lợi, nhưng một người đọc tụng cẩn thận chắc chắn sẽ đánh giá cao sự liên quan của những kinh bài. Trong bài thảo luận về Giá trị của kinh Thánh Hộ Trì Paritta, một nỗ lực được thực hiện để chỉ ra ý nghĩa của kinh Thánh Paritta đối với người Phật tử.

Tôi đã cố gắng giữ sát nghĩa nhất có thể từ ngữ gốc của bài kinh mà không biến nó thành bản dịch quá sát nghĩa, mặt khác là dịch từng chữ, và đã tránh dịch các khổ thơ Pali thành câu thơ (ngoại trừ khổ thơ của các bài nghị luận số 5, 11, 19) để cung cấp một kết xuất rất trung thực, dễ dàng và dễ tụng đọc. Tôi đã lưu giữ những từ đồng nghĩa và sự lặp lại trong các bài kinh vì chúng là những từ chính xác của Đức Phật được truyền lại cho chúng ta qua truyền khẩu.

Trong tất cả các bài kinh từ vựng "Bhagava", "Đức Thế Tôn", là đại danh từ chỉ Đức Phật, thường được sử dụng. Để tránh sử dụng cùng một từ quá thường xuyên trong bản dịch, đôi khi tôi đã sử dụng từ vựng "Đức Phật" cho "Bhagava" hoặc một đại danh từ nhân xưng để chỉ ngài.

Các từ Pali và tên trong tác phẩm này thiếu dấu. Tuy nhiên, ở một số nơi, loại nhỏ hơn với các dấu như vậy được sử dụng. Nhưng học sinh Pali có thể không gặp khó khăn gì trong việc phát âm chúng. Người đọc có thể tham khảo Khandha-vatta Jataka (số 203) khi nghiên cứu Khandha Paritta là thần chú của Đạo Phật, một điển hình của kinh cứu khổ của Phật Giáo .

Kinh Angulimala Paritta là một bài kinh ngắn không được ghi trong Kinh Thánh Hộ Trì (văn bản Paritta), nhưng vì nó là một kinh Hộ Trì Paritta được các bà mẹ tương lai sử dụng ở các xứ sở Phật giáo, tôi đã đưa nó vào Phụ lục. Các khổ thơ Pali khác, được các Phật tử sử dụng khi đọc tụng kinh Pali, cũng được đưa vào Phụ lục với phần trình bày bằng tiếng Anh.

Tôi mang ơn ông V.F. Gunaratna, ủy viên chính phủ đã nghỉ hưu của Sri Lanka, ông đã chăm chút đọc kịch bản, ông đã cẩn thận đề xuất có giá trị, cũng như để viết Lời nói đầu. The Ven. Kheminda Maha Thera đã hỗ trợ tôi trong việc tìm kiếm các tài liệu tham khảo, Ven. Siridhamma Thera khi đọc các bản chứng minh, và ông K.G. Abeysinghe khi nhập văn bản. Tôi biết ơn họ. Xin gửi lời cảm ơn tới cô K. Jayawardana của Union in Works và nhân viên của cô, những người đã quan tâm đến việc in ấn tác phẩm này. Cuối cùng, nhưng ít nhất, lời cảm ơn của tôi là cho Messrs D. Munidase và U.P. de Zoysa cho tất cả sự giúp đỡ mà họ đã dành cho tôi.
—Piyadassi
Vesakha-mase, 2519: May 1975
Vajirarama,
Colombo 5,
Sri Lanka (Ceylon).

Lời Tựa  

by V.F. Gunaratna

Thế giới văn học Phật giáo tiếng Anh trở nên phong phú nhờ xuất bản cuốn sách này có tựa đề "Kinh Thánh Hộ Trì" (The Book of Protection). Đây là bản dịch của Ven. Piyadassi Maha Thera được mọi người Phật tử Sinhala biết đến với cái tên Pirit Potha có nghĩa là kinh Thánh Hộ Trì. Bao gồm một bộ sưu tập các bài kinh hoặc bài giảng được trích từ lời dạy của Đức Phật và được sử dụng để tụng đọc trong các ngôi chùa và gia đình với mục đích được bảo vệ khỏi mọi nguy hại. Điều này đạt được bằng cách nhớ lại với niềm Tin (saddha) hoặc tin tưởng vào các đức tính của Đức Phật, Giáo pháp và Tăng đoàn được đề cập đến trong các bài giảng này. Có nhiều người nghe tụng những bài giảng này nhưng hầu như không hiểu được sự lợi ích của những bài kinh này và do đó bất kỳ lợi ích nào mà họ có thể đạt được là nhỏ. Do đó, bản dịch này cung cấp một nhu cầu từ lâu vì nó sẽ giúp những người như vậy lắng nghe với sự hiểu biết khi được đọc thuộc lòng. Bởi vậy, Vị Sư phiên dịch đó đáng được tán thán vì là người đầu tiên dịch cuốn kinh thể loại này.

Để dịch một cuốn sách không dễ như viết một cuốn sách. Công việc dịch thuật đòi hỏi sự chính xác và tập trung tư tưởng. Một bản dịch quá sát với bản gốc sẽ không có khả năng truyền tải được tinh thần cơ bản của văn bản gốc.

Đồng thời, một bản dịch quá phóng khoán có nguy cơ diễn đạt xa hơn những gì tác giả của bản gốc đã dự định và do đó có sự hiểu lầm về tác giả. Vị Sư dịch giả chắc chắn đã làm tốt bằng cách phân định rạch ròi giữa hai thái cực này và do đó đáng được khen ngợi đặc biệt.
Hơn nữa, Ngài đã bằng cách thức dịch thuật của mình, đã chứng tỏ rằng Ngài rất nỗ lực để tạo điều kiện thuận lợi cho mục đích của việc tụng đọc kinh. Bằng những lời giải thích trong ngoặc đơn và những ghi chú hữu ích, Ngài đã làm sáng tỏ ý nghĩa của các từ vựng và cụm từ mà ý nghĩa đầy đủ của chúng dường như bị che khuất. Nếu cần làm rõ thêm, xin mời độc giả tham khảo Cuốn sách "Con đường cổ xưa của Đức Phật" của Piyadassi Maha Thera [Hiệp hội xuất bản Phật giáo, P.O. Hộp 61, Kandy, Sri Lanka] đề cập đến khá nhiều điểm liên quan đến Phật-pháp.

Không thể nghi ngờ rằng bản dịch kinh Thánh Hộ Trì (Pirith Potha) này của Ngài Piyadassi Maha Thera - một tác giả nổi tiếng của một số cuốn sách Phật giáo và là một nhà thuyết giảng có bài giảng của họ đã nhận được sự chấp nhận lớn ở cả phương Đông và phương Tây - sẽ được ca ngợi một cách vui mừng bởi những người mong muốn có được sự hiểu biết đầy đủ về việc tụng niệm trong các ngôi chùa và nhà - đôi khi có hiệu quả kỳ diệu.

Hitanukampa sambuddho-yadannamanusasati
Anurodha virodhehi-vippamutto Tathagato
Lòng từ và sự bi mẫn đã tạo nên cảm giác sáng ngời
Đến đối tượng khi anh ta hướng dẫn họ
Như Lai đã giải thoát hoàn toàn
Khỏi sự lưu luyến và sự oán hận.
— Samyutta Nikaya i. p. iii.

Giá Trị Của Kinh Paritta

Trong sự nghiên cứu của giới y khoa cho thấy ngành tâm lý học thực nghiệm và cái vẫn được gọi là siêu tâm lý học hay tâm linh học đã đưa ra một số ánh sáng về bản chất của tâm và vị trí của nó trong thế giới. Trong suốt bốn mươi năm qua niềm tin ngày càng gia tăng trong giới y học rằng rất nhiều nguyên nhân gây ra các căn bệnh hữu cơ cũng như chức năng, đều do trạng thái tâm trực tiếp gây ra. Cơ thể bị bệnh bởi vì tâm kiểm soát nó hoặc tạo nên căn bệnh mà không biết, hoặc bởi vì nó ở trong trạng thái kích động đến mức nó không thể tránh khỏi căn bệnh. Dù bản chất vật lý của nó là gì, khả năng chống lại bệnh tật có mối tương quan chắc chắn với tình trạng sinh lý của bệnh nhân.

Tâm không chỉ tạo nên bệnh, mà nó còn có thể chữa bệnh. Một bệnh nhân lạc quan có nhiều cơ hội khỏi bệnh hơn một bệnh nhân lo lắng và ưu phiền. Các trường hợp chữa bệnh bằng đức tin được ghi lại bao gồm các trường hợp ngay cả các bệnh hữu cơ (bệnh hữu cơ là bất kỳ bệnh nào trong đó có sự thay đổi về thể chất trong cấu trúc của một cơ quan hoặc bộ phận), cũng được chữa khỏi gần như ngay lập tức. '

Trong mối liên hệ này thuyết phục cho thấy sự đang thịnh hành, ở các quốc gia Phật giáo, sự nghe giảng Pháp hoặc giáo lý của Đức Phật để ngăn chặn bệnh tật hoặc sự nguy hiểm, để tránh bị ảnh hưởng của những sinh vật hiểm ác, để có được sự bảo vệ và giải cứu khỏi ma quỉ, và để nâng cao sức khỏe, sự thịnh vượng, phúc lợi và hạnh phúc. Các bài kinh được chọn để tụng đọc được gọi là "kinh hộ trì paritta", các bài kinh hộ trì. Nhưng không phải là "thần chú rakshana" hay thần chú bảo vệ được tìm thấy trong tôn giáo Bà la môn, cũng không phải là nghi thức ma thuật. Không có gì thần bí trong kinh hộ trì paritta.

Thuật ngữ "Paritta" trong tiếng Pali, trong tiếng Phạn là "paritrana" và "pirit" (phát âm là pirith) trong tiếng Sinhala có nghĩa là bảo vệ chủ yếu. Các bài kinh Paritta mô tả một số bài kinh hoặc bài giảng chân thực do Đức Phật thuyết giảng và được coi là đủ khả năng hộ trì. Có được sự hộ trì này bằng cách đọc tụng thuộc lòng hoặc nghe các bài kinh paritta. Việc tu tập trì tụng hoặc nghe các bài kinh paritta có từ rất sớm trong lịch sử Phật giáo. Thuật ngữ paritta, được Đức Phật sử dụng lần đầu tiên trong một bài kinh tên là Kinh Ngũ Uẩn (Khandha Paritta) trong Culla Vagga của Luật tạng (quyển ii, trang 109), và cũng trong Kinh Anguttara Nikaya với tiêu đề "Ahi (metta) Sutta" (quyển ii, trang 82). Bài pháp này đã được Đức Phật đề nghị như một sự bảo vệ hoặc hộ trì cho những người tụng đọc. Đức Phật trong bài kinh này khuyên các tu sĩ hãy trau dồi tâm từ hay lòng từ đối với tất cả chúng sinh.

Không thể nghi ngờ rằng Kinh Hộ Trì Paritta tạo ra tinh thần an lạc cho những ai tụng đọc và lắng nghe với sự hiểu biết và tin tưởng vào chân lý của những lời Đức Phật dạy. Như thế, tinh thần an lạc có thể giúp những người bị bệnh phục hồi, và cũng có thể giúp không chỉ tạo ra thái độ tinh thần mang lại hạnh phúc mà còn giúp khắc phục điều ngược lại của nó. Tại Ấn Độ thời Đức Phật còn tại thế, những người đọc tụng hoặc nghe những câu Kinh Hộ Trì Pparitta của Đức Phật đều hiểu những gì được trì tụng và ảnh hưởng của câu kinh là rất lớn. Chính Đức Phật đã hộ niệm paritta cho mình, và Ngài cũng yêu cầu người khác niệm paritta cho các đệ tử của mình khi họ bị bệnh. [5] Tập tục này vẫn còn thịnh hành ở các xứ sở Phật giáo.

Đức Phật và các vị Thánh A-la-hán có thể tập trung vào các bài Kinh Hộ Trì Paritta mà không cần sự trợ giúp của người khác. Tuy nhiên, khi bị bịnh, họ sẽ dễ dàng lắng nghe những gì người khác đọc tụng hơn, và do đó, họ tập trung tâm vào giáo pháp mà bài kinh chứa đựng, hơn là tự mình nghĩ ra giáo pháp. Có những trường hợp, chẳng hạn như trong trường hợp bệnh tật, làm suy yếu trí óc ( trường hợp những người phàm tục), khi gợi ý đặc biệt được cho là hiệu quả hơn so với việc tự họ tìm hiểu.

Dựa vào giáo pháp của Đức Phật, tâm và thân có sự kết hợp chặt chẽ với các trạng thái tinh thần ảnh hưởng đến sức khỏe của thân và niềm hạnh phúc. Một số bác sĩ thậm chí nói rằng không phải bệnh là do hoàn toàn về thể chất. Ngay cả một sự thật rất rõ ràng là một sự than vãn khi bị nhức răng có thể do vấn đề tâm lý gây ra đã được viết trong một bài đọc trước Đại hội Nha khoa Hoa Kỳ năm 1937. Tác giả chỉ ra rằng trẻ em sống với một chế độ ăn kiêng hoàn toàn đạt tiêu chuẩn vẫn có thể bị sâu răng. Trong những trường hợp như vậy, sự nghiên cứu thường cho thấy cuộc sống của đứa trẻ ở nhà hoặc ở trường về một mặt nào đó không được thỏa mãn. Răng sâu bởi vì chủ nhân của chúng đang bị căng thẳng về tinh thần. '[6] Trừ khi, theo học thuyết nghiệp của Phật giáo về nghiệp (Trong tiếng Sanskrit viết là karma),  những trạng thái tinh thần xấu này là do hành vi của chính mình gây ra (akusala kamma-vipaka ), và do đó không thể thay đổi được, vì vậy có thể thay đổi những trạng thái tinh thần này để tạo ra sức khỏe tâm linh và thể chất sau đó.

1. Năng Lực Của Chân Thực

Nhiều yếu tố kết hợp để góp phần tạo nên hiệu quả của các buổi tụng đọc Kinh Hộ Trì Paritta. Việc tụng đọc Kinh Hộ Trì Paritta là một dạng của năng lực thần thông hay còn được coi là năng lực của chân thực (saccakiriya), tức là một sự khẳng định chân thật. Kết quả được hộ trì bằng sức mạnh của sự đảm bảo đó. Điều này có nghĩa là thiết lập chính mình trong sức mạnh của sự thật để đạt được mục đích của mình. Vào cuối mỗi bài kinh, người trì tụng ban phước cho người nghe bằng những lời, etena sacca vajjena sotti te hotu sabbada có nghĩa là "nhờ sức mạnh sự thật chân thật của những lời này, bạn sẽ được khỏe mạnh." Câu nói, "sức mạnh của giáo pháp hay Chân lý hộ trì người theo giáo pháp" (dhammo có rakkhati dhammcarin) chỉ ra nguyên tắc đằng sau những buổi trì tụng kinh này.

""Niềm tin trong năng lực hữu hiệu để chữa lành, hoặc hộ trì, của năng lực chân thật (saccakiriya), hoặc chứng thực một điều gì đó hoàn toàn đúng, nhưng chỉ là một khía cạnh khác của việc được công nhận cho Kinh Hộ Trì paritta." 

2. Năng Lực của Đức Hạnh

Nhiều bài kinh thuộc Kinh Thánh Hộ Trì nói về đời sống đức hạnh. Điểm khởi đầu trong Phật giáo là giới (đức hạnh). Đứng trên nền tảng vững chắc của giới hành giả nên cố gắng đạt được một tâm thanh thản. Nếu thực sự rằng đức hạnh bảo vệ người có đức hạnh, thì một người nghe tụng các bài kinh Thánh hộ trì paritta một cách thông minh, với tâm trạng suy tư, hoàn toàn tin tưởng vào những lời Phật dạy, Ngài là một người đã đạt được Giác ngộ hoàn toàn, sẽ có được đức hạnh như vậy. trạng thái của tâm sẽ cho phép hành giả chế ngự bất kỳ ảnh hưởng xấu nào, và được hộ trì khỏi mọi tổn hại.

3. Năng Lực của Lòng Từ

Lời giảng dạy của Đức Phật về lòng từ bi là không bao giờ bỏ quên lòng thương vạn vật. Ngài đã đi trên những con đường cao và những con đường nhỏ của Ấn Độ, bao bọc tất cả với ánh hào quang của lòng từ và sự bi mẫn, chỉ dẫn, khai sáng và làm vui lòng nhiều người bởi sự giảng dạy của Ngài. Do đó, những người trì tụng kinh thánh paritta phải làm như vậy với một trái tim của lòng từ và sự bi mẫn mong muốn người nghe và những người khác khỏe mạnh, hạnh phúc và được hộ trì khỏi mọi sự tổn hại.

Lòng từ (metta) là một động lực. Mọi hành động của một người thật sự với tâm từ đều được thực hiện với tâm trong sáng để giúp đỡ, để cổ vũ và làm cho cách tiếp cận của người khác dễ dàng hơn, suôn sẻ hơn và thích nghi hơn với việc chinh phục nỗi buồn, chiến thắng niềm hạnh phúc cao nhất.

Bà C. A. F. Rhys Davids đưa ra nhận xét về tâm từ (metta) viết: "Chức vụ của sự thân thiện, theo học thuyết Phật giáo, không chỉ là một lời nói khéo léo. Mà là để đồng hành và thể hiện nỗi đau tâm linh của con người hoặc con thú hoặc linh hồn với sự tử tế, sự thương xót như anh em - với tâm từ. Đối với niềm tin mạnh mẽ, trong Kinh tạng và Luật tạng, đến Thanh Tịnh Đạo luận Visuddhi Magga của Luận sư Buddhaghosa,  rằng "tư tưởng là sự vật," rằng hành động tâm linh, tình cảm hoặc trí tuệ, có khả năng hoạt động giống như một lực lượng giữa các lực lượng. Người Tây Phương có thể sẽ đi xa hơn với thái độ này của Ấn Độ. "

4. Năng Lực của việc nghe Trì Tụng Kinh Thánh Paritta

Người ta tin rằng những âm thanh rung động được tạo ra bởi phần độc tấu hay và bay bổng của các bài thánh kinh paritta trong các bài kệ tiếng Pali có tác dụng xoa dịu tinh thần và tạo ra sự bình yên và tĩnh lặng cho tâm trí; chúng cũng mang lại sự hài hòa cho cơ thể.

Có thế nào mà những ảnh hưởng xấu đến từ những sinh vật xấu xa làm ngược lại bằng cách tụng đọc lại các bài thánh kinh paritta? Ảnh hưởng xấu là kết quả của suy nghĩ xấu xa. Do đó, sự suy nghĩ xấu xa có thể bị chống lại bởi trạng thái lành mạnh của tâm. Một cách chắc chắn để tạo ra trạng thái tâm lành mạnh là lắng nghe và suy ngẫm về các bài tụng paritta với trí thông minh và sự tự tin. Sức mạnh của sự tập trung tuyệt vời đến nỗi bằng cách toàn tâm toàn ý đề cập đến sự chân thật chứa đựng trong các bài tụng paritta, người ta có thể phát triển một trạng thái tinh khiết của tâm.

Việc tụng đọc các bài kinh paritta cũng có thể mang lại những phước lành vật chất khi nó thức tỉnh thông qua các trạng thái lành mạnh của tâm trí được tạo ra bởi sự tập trung và tự tin khi lắng nghe bài giảng một cách có trí tuệ. Theo Đức Phật, nỗ lực đúng đắn là yếu tố cần thiết để vượt qua đau khổ.  Nghe những bài tụng này theo cách thích hợp cũng có thể tạo ra năng lượng cho mục đích bảo đảm sự tiến bộ trên thế giới đồng thời nó cũng đảm bảo sự tiến bộ về tâm linh.

Không có loại thuốc nào tốt hơn pháp chân thật (Pháp) cho những bệnh tật về tinh thần và thể chất vốn là nguyên nhân của mọi đau khổ và bất hạnh. Vì vậy, việc tụng đọc các bài kinh paritta càng nhiều càng chứa đựng giáo pháp, khi được lắng nghe với thái độ thích hợp, có thể mang lại trạng thái tâm trí lành mạnh dẫn đến khỏe mạnh, tiến bộ vật chất và tiến bộ tinh thần. Tác dụng của hộ trì Pirit cũng có thể vượt xa khoảng cách rất lớn.

Điều đó đúng là các Phật tử coi các thánh kinh paritta như một lực lượng không bao giờ thất bại, mạnh mẽ và thanh lọc, một sự chắc chắn. Tuy nhiên, một câu hỏi có thể nảy sinh là liệu trong mọi trường hợp, liệu các bài tụng đọc kinh thánh hộ trì paritta có mang lại sự bảo vệ và ban phước cho người tìm kiếm hay không. Trong sự liên quan này, câu trả lời tương tự mà Đại đức Nagasena trả lời cho câu hỏi của Vua Milinda tại sao trong mọi trường hợp, việc trì tụng kinh thánh paritta không bảo vệ một người khỏi cái chết, đáng được ghi nhớ: "Do ba nguyên nhân mà việc tụng đọc kinh thánh paritta có thể không có tác dụng: 1 là nghiệp chướng ngại ( kammavarana); 2 là chướng ngại từ phiền não (kilesavarana); 3 là thiếu đức tin (asaddhanataya). " 

Nghiệp có nghĩa là hành động chứ không phải kết quả của hành động; do đó nghiệp có thể bị chống lại bởi hành động khác. Nghiệp không phải là một cái gì đó bất biến, nó luôn luôn thay đổi, tức là luôn luôn tạo ra; vì vậy, hành động (nghiệp)có thể bị chống lại bởi hành động khác. Do đó, những hành động xấu đối với người nghe buổi trì tụng có thể làm tiêu cực những tác động có lợi của việc trì tụng đó.

Nếu tâm của người nghe bị nhiễm bẩn bởi những ý nghĩ không thanh tịnh thì những tác động có lợi dự liệu của buổi trì tụng cũng có thể không thành hiện thực. Nhưng tâm của người nghe có thể không thanh tịnh (chẳng hạn như tâm đang sầu khổ vì thân đang đau đớn) đến đâu nếu họ tin tưởng tuyệt đối vào hiệu quả của buổi trì tụng thì yếu tố quan trọng này có thể giúp đảm bảo cho người đó những tác dụng có lợi của buổi tụng đọc.

Kinh Thánh Hộ Trì - Paritta

Tuyển tập các bài kinh paritta này - trong Sinhala, kinh Pirit Potha là một kinh Thánh Pali - được phổ biến rộng rãi nhất ở Sri Lanka. Được gọi là Kinh thánh Phật giáo; đứng một vị trí quan trọng trong ngôi nhà của những người Phật tử, và thậm chí được các Phật tử hết sức tôn kính. Trong hầu hết các ngôi nhà của người Phật tử đều có một phòng nguyện nhỏ, cuốn kinh này được lưu giữ ở đó để mọi người trong nhà có thể tham khảo trong giờ tụng kinh của họ. Một số người đã nguyện ghi nhớ ba bài kinh nổi tiếng - các bài Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) , Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) và Kinh Tâm Từ -Karaniya-metta.  Ngay cả trẻ em cũng thuộc lòng với những bài bài kinh này; vì trẻ em học những bài kinh này từ cha mẹ và ở người lớn tuổi hoặc từ "trường dạy pháp".

Khuynh hướng nghe tụng kinh paritta của người phương Tây đang phát triển chậm nhưng đều đặn. Người viết hiện nay, trong khi đi công tác ở các nước Âu Mỹ, theo yêu cầu của một số cư dân ở đó, đã thu băng ghi âm bài tụng kinh paritta vì lợi ích của họ, và đã gửi băng cát-xét bằng đường hàng không chứa bài kinh đọc tụng cho những người đã đưa ông ta những băng cát-xét để nhờ thâu âm.

Bây giờ cuốn sách nội dung là gì? Đây là một tuyển tập gồm hai mươi bốn bài kinh đều do Đức Phật thuyết giảng, và được tìm thấy rải rác trong năm tuyển tập nguyên bản (Kinh Tạng nikayas) bằng tiếng Pali, tạo thành Kinh tạng, "Canonical Discourses." Những bài giảng này bắt đầu bằng Tam Quy; Mười giới luật và những câu hỏi của một sa di.

Tuyển tập các bài kinh này, thường được biết đến với cái tên Pirit Potha hay kinh Thánh hộ trì, có một tựa đề ít được biết đến hơn, Catubhanavara (trong tiếng Sinhala Satara Banavara). Một bài Bình luận thế kỷ 13 về vấn đề này, được viết bằng tiếng Pali, bởi một học trò của Hòa thượng Rajaguru Vanaratana ở Sri Lanka, có sẵn dưới tựa đề Catubhanavara Atthakatha hoặc Sarattha Samuccaya.

Kinh Tụng Bhanavara là một phần kinh tụng có 8.000 chữ là gì? Là một bộ tổng hợp các bài giảng hoặc các bài kinh. Bốn bộ tổng hợp như vậy được gọi là Catubhanavara (catu nghĩa là 4). Như những người thầy ngày xưa đã nói, một dòng ba từ (pada) được tạo thành từ tám âm tiết (attha akkhara), bốn padas (cú) như vậy tạo thành một khổ thơ hoặc một gatha (phúng tụng). Như vậy khổ thơ gồm có ba mươi hai âm tiết. 250 khổ thơ như vậy được gọi là bhanavara bao gồm 8.000 âm tiết. Catunabhanavara được biên soạn bởi Maha Theras, những người thầy của yore (paranakacariya), người Sri Lanka, và ngày nay nó được các Phật tử Sri Lanka biết đến với cái tên Pirit Potha Kinh Thánh Hộ Trì.

Thông thường thì các nhà sư Phật giáo khi được mời đến nhà cư sĩ vào những dịp trọng đại của gia đình, chẳng hạn như ngày sinh, tân gia, ốm đau, và những sự kiện tương tự, phải tụng ba bài kinh phổ biến nói trên. Trong đời sống và sinh hoạt trong xã hội của người dân Sri Lanka lễ pirit có ý nghĩa vô cùng to lớn. Không có lễ hội hay chức năng nào, tôn giáo hay xã hội, hoàn chỉnh mà không có sự tụng đọc của Thánh Kinh Paritta. Vào những dịp đặc biệt, các nhà sư được thỉnh đọc tụng các bài kinh paritta không phải trong thời gian ngắn mà ngay trong một đêm hoặc trong ba hoặc bảy ngày, và đôi khi, trong nhiều tuần. Vào những dịp như vậy, một đạo tràng (pirit mandapaya) được lập lên để các nhà sư làm buổi lễ trì tụng kinh. Trước khi bắt đầu buổi lễ, giáo dân có mặt tại buổi lễ đưa ra lời thỉnh chính thức đến các nhà sư bằng cách đọc ba khổ thơ bằng tiếng Pali giải thích mục đích của buổi trì tụng. Sau đó, các nhà sư, thường khoảng mười hai hoặc mười bốn, những người đã được mời, sẽ tụng ba bài kinh phổ biến (Kinh Điềm Lành, Kinh Châu Báu, Kinh Tâm Từ). Sau đó, hai nhà sư sẽ bắt đầu đọc các bài kinh còn lại trong hai giờ. Sau đó, họ sẽ nghỉ và hai nhà sư khác sẽ tiếp theo làm lễ trong hai giờ nữa. Cứ như vậy, hai nhà sư phải thường xuyên làm lễ. Theo cách này, buổi tụng đọc sẽ kéo dài đến bình minh.

Trong khi buổi trì tụng tiếp tục một chậu nước được đặt trên bàn trước các nhà sư. Trên bàn này cũng có một sợi dây thiêng (pirit nula). Đối với một buổi lễ pirit suốt đêm, một hộp đựng (bảo tháp) xá lợi của Đức Phật, và Kinh Pirit Potha hoặc Kinh Thánh Hộ Trị được viết trên lá ola, cũng được mang vào đạo tràng. Xá lợi tượng trưng cho Đức Phật, kinh Hộ Trì "Pirit Potha" tượng trưng cho Giáo pháp hoặc lời dạy của Đức Phật, và các Tỳ-kheo trì tụng tượng trưng cho các vị Thánh Tăng (Ariya-Sangha), những đệ tử a-la-hán của Đức Phật.

Sợi dây được kéo xung quanh bên trong gian nhà, và phần cuối của nó xoắn quanh bảo tháp đựng xá lợi, cổ chậu nước, và buộc vào sợi dây của cuốn kinh bằng lá ola. Trong khi các bài kinh đặc biệt được tụng đọc, các nhà sư giữ sợi dây. Mục đích là để duy trì một sự liên lạc không gián đoạn từ nước đến thánh tích, đến kinh Pirit Potha và các nhà sư đang hành lễ, (Phật, Pháp, Tăng - Tam Bảo.) Một quả cầu của sợi dây kết nối với " Tam Bảo "và nước, được mở ra và truyền cho người nghe (những người ngồi trên chiếu trên mặt đất), cầm sợi dây trong khi buổi trì tụng tiếp tục.

Khi buổi trì tụng bằng tiếng Pali của toàn bộ kinh Thánh kết thúc vào lúc bình minh, sợi dây được thánh hóa bởi buổi trì tụng được chia thành nhiều mảnh và phân phát cho những người Phật tử để buộc quanh cổ tay hoặc cổ của họ. Đồng thời, nước thánh được rảy trên tất cả mọi người, thậm chí ai cũng uống một chút nước và rảy trên đầu. Đây được coi là biểu tượng của sức mạnh hộ trì của paritta đã được truyền tụng. Đó là một dịch vụ ban phước. Nó có tác dụng tâm lý .

Tiến sĩ Bernard Grad của Đại học McGill ở Montreal ông đã thực hiện một loạt thí nghiệm trên hạt giống cây trồng đã dẫn đến một số bằng chứng mạnh mẽ nhất về khả năng chữa bệnh trong bệnh lý cận thần kinh rằng với một vị pháp sư về tâm linh giữ nước trong một cái bình và sau đó nước này được đổ lên hạt lúa mạch, thì lúa mạch sẽ lớn hơn những hạt chưa được vẩy nước đó. Nhưng - và đây là phần hấp dẫn - nếu bệnh nhân tinh thần chán nản cầm bình nước, sau đó đổ lên hạt giống thì sự phát triển của hạt giống sẽ bị chậm lại.

Dr. Grad cho rằng dường như có một số "yếu tố x" hoặc năng lượng chảy từ cơ thể con người để ảnh hưởng đến sự phát triển của thực vật và động vật. Tâm trạng của một người ảnh hưởng đến năng lượng này. Tiến sĩ Grad cho biết "năng lượng" chưa được công nhận trước đây này có ý nghĩa rộng lớn nhất đối với khoa học y tế, từ chữa bệnh cho đến các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. '

căn cứ vào thực nghiệm được phát hiện bởi Tiến sĩ Grad, tâm trí có thể ảnh hưởng đến vật chất. Nếu đúng như vậy, không cần phải suy nghĩ nhiều để rút ra suy luận logic mà tâm trí có thể ảnh hưởng đến tâm trí. Hơn nữa, nếu tâm trí con người có thể ảnh hưởng đến động vật thấp hơn, thì bằng một lý luận ngang hàng, tâm trí con người có thể ảnh hưởng đến tâm trí của những sinh vật cao hơn động vật.

Lời Mời (aradhana)  

Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya
Sabba dukkha vinasaya — parittam bratha mangalam

Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya
Sabba bhhya vinasaya — parittam bratha mangalam

Vipatti patibahaya -sabba sampatti siddhiya
Sabba roga vinasaya — parittam bratha mangalam
Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi đau khổ để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn

Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mmọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi sợ hãi để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn.

Thoát khỏi bất hạnh, tôi có thể được tự do
Mmọi điều may mắn sẽ đến với tôi
Và cũng thoát khỏi bệnh tật để được tự do
Tri Tụng Kinh "Hộ Trì" Tôi mời bạn

I. Qui Y Tam Bảo (Sarana-gamana [1])  

Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa

Homage to the Blessed One, the Consummate One,
the supremely Enlightened One

Buddham saranam gacchami
Dhammam saranam gacchami
Sangham saranam gacchami

Dutiyampi Buddham saranam gacchami
Dutiyampi Dhammam saranam gacchami
Dutiyampi Sangham saranam gacchami

Tatiyampi Buddham saranam gacchami
Tatiyampi Dhammam saranam gacchami
Tatiyampi Sangham saranam gacchami
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật. (Giáo Thọ Sư)
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp. (Giáo Thọ Sư)
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng. (Giáo Thọ Sư)

Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Phật, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Pháp, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính) xin Quy y Tăng, lần thứ ba.

Note

1* Vin. I, 22 (cf. M. i. 24); Khp. No. 1.

II. Mười Giới (Dasa-sikkhapada)   [1]

1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
1. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
2. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
3. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.

4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
4. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối..

5. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
5. Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say.

6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhā-padaṃ samādiyāmi.
6- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.

7. Nāccagītavāditavisū kadassanamālā gandhavilepanadhāranamaṇdaṇavibhū sa-naṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
7- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn và trang điểm thoa vật thơm, đồi phấn, đeo tràng hoa.

8. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.
8- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

9- Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī
9 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa việc sử dụng sàng tọa cao rộng .

10. Jāta-rūparajatapaṭiggahaṇā veramaṇī
10 - Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa Kiêng tránh sự thọ nhận vàng bạc.

Note

1.
Khp. No. 2; cf. Vin. I, 83-84; Vbh. 285 ff.

III. Nam Tử Hỏi Ðạo (Samanera Pañha [1])  

1) Ekaṃ nāma kiṃ? Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā.
1) Thế nào là một? - Mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn.[2]

2) Dve nāma kiṃ? Nāmañca rūpañca
2) Thế nào là hai? - Danh và sắc.

3) Tīṇi nāma kiṃ? Tisso vedanā.
3) Thế nào là ba? - Ba loại cảm thọ.

4) Cattāri nāma kiṃ? Cattāri ariyasaccāni.
4)Thế nào là bốn? - Bốn Thánh đế.

5) Pañca nāma kiṃ? Pañcupādānakkhandhā.
5)Thế nào là năm? - Năm thủ uẩn.

6)Cha nāma kiṃ? Cha ajjhattikāni āyatanāni.
6)Thế nào là sáu? - Sáu nội xứ.

7) Satta nāma kiṃ? Satta bojjhaṅgā.
7)Thế nào là bảy? - Bảy giác chi.

8)Aṭṭha nāma kiṃ? Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
8)Thế nào là tám? - Thánh đạo tám ngành.

9) Nava nāma kiṃ? Nava sattāvāsā.
9) Thế nào là chín? - Chín nơi cư trú của các loài hữu tình.

10) Dasa nāma kiṃ? Dasahaṅgehi samannāgato “arahā”ti vuccatīti.
10)Thế nào là mười? - Vị nào có đủ mười đức tánh được gọi là vị A-la-hán.

Notes

1.
Also known as "Kumaro Pañha," Questions to be answered by the Young One. Khp. No. 4; cf. A. v. 50 ff; 55 ff. The novice referred to here is the seven-year old Sopaka. He was questioned by the Buddha. It is not a matter for surprise that a child of such tender years can give profound answers to these questions. One has heard of infant prodigies. (See Encyclopaedia Britannica. Inc., 1955, II. p. 389. Also read The Case for Rebirth, Francis Story, Wheel 12-13, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka.)
2.
See notes at the end of the book.

IV. 32 Thể Trược (Dvattimsakara [1])  

1- Kesā: Tóc mọc trên da đầu, 2- Lomā: Lông mọc toàn da thân, 3- Nakhā: Móng mọc 10 đầu ngón tay, 10 ngón chân, 4- Dantā: Răng mọc, 2 hàm răng trên và dưới, 5- Taco: Da bao bọc toàn thân, 6- Maṃsaṃ: Thịt dính với xương, 7- Nahāru: Gân có toàn thân, 8- Aṭṭhi: Xương các bộ phận, 9- Aṭṭhimiñjaṃ: Tủy trong ống xương, 10- Vakkaṃ: Thận , 11- Hadayaṃ: Trái tim, 12- Yakanaṃ: Gan, 13- Kilomakaṃ: Màng phổi, 14- Pihakaṃ: Bao tử, 15- Papphāsaṃ: Buồng phổi, 16- Antaṃ: Ruột già, 17- Antaguṇaṃ: Ruột non, 18- Udariyaṃ: Vật thực mới, 19- Karīsaṃ: Phẩn, 20- Mattaluṅgaṃ: Óc, 21- Pittaṃ: Mật, 22- Semhaṃ: Đàm, 23- Pubbo: Mủ, 24- Lohitaṃ: Máu, 25- Sedo: Mồ hôi, 26- Medo: Mỡ đặc, 27- Assu: Nước mắt, 28- Vasā: Mỡ lỏng, 29- Khelo: Nước miếng (bọt), 30- Singhāṇikā: Nước mũi, 31- Lasikā: Nước nhớt trong các khớp xương. 32- Muttaṃ: Nước tiểu.

Note

1.
Khp. No. 3; cf. D. ii, 293; M. I, 57; iii, 90. Also see below Girimananda sutta 15.

V. Quán tưởng Y Phục, Vật Thực, Trú Xứ, Dược Phẩm (Paccavekkhana [1])  

1. Cīvare - Paṭisaṅghā yoniso, cīvaraṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva hiri-kopīna-ppaticchādanatthaṃ.
1. Y phục Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y phục Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Và chỉ để che thân Tránh những điều hổ thẹn.

2. Piṇḍapāte - Paṭisaṅghā yoniso, piṇḍapātaṃ paṭisevāmi, n’eva davāya, na madāya, na maṇḍanāya, na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṃsūparatiyā, brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādesāmi, yātrā ca me bhavissati, anavajjatā ca phāsuvihāro ca.
2. Vật thực Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng vật thực Không phải để vui đùa Không ham mê vô độ Không phải để trang sức Không tự làm đẹp mình Mà chỉ để thân này Được bảo trì mạnh khoẻ Để tránh sự tổn thương Để trợ duyên Phạm hạnh Cảm thọ cũ được trừ Thọ mới không sanh khởi Và sẽ không lầm lỗi Ta sống được an lành.

3. Senāsane - Paṭisaṅghā yoniso, senāsanaṃ paṭisevāmi, yāvādeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṃsa-makasa-vāt’ātapa-sarīsapa-samphassānaṃ paṭighātāya, yāvadeva utuparissaya- vinodana-ppaṭisallānārāmatthaṃ.
3. Trú xứ Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng liêu thất Để ngăn ngừa nóng lạnh Hoặc xúc chạm muỗi mòng Gió sương và mưa nắng Cùng rắn rít côn trùng Để giải trừ nguy hiểm Do phong thổ tứ thời Và chỉ với mục đích Sống độc cư an tịnh.

4. Gilāna-paccaya-bhesajje - Paṭisaṅghā yoniso, gilānapaccaya-bhesajjaparikkhāraṃ paṭisevāmi, yāvādeva, uppannānaṃ veyyābādhikānaṃ, vedanānaṃ paṭighātāya, abyābajjha-paramatāya.
4. Dược Phẩm Chơn chánh quán tưởng rằng Ta thọ dụng y dược Dành cho người bệnh dùng Để ngăn ngừa cảm thọ Tàn hại đã phát sanh Được hoàn toàn bình phục.

Note

1.
M. i. p. 10; cf. A. ii. 40; M. 53.

Discourses

1. Mười Pháp Quán Tưởng Của Người Xuất Gia (Dasa-dhamma sutta [1])  

[pts][than][piya][olds] Evaṃ me sutaṃ:|| ||
Như vầy tôi nghe:

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati.|| ||
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

Tatra kho Bhagavā bhikkhū āmantesi:|| || "Bhikkhavo" ti.|| || "Bhadante" ti te bhikkhū Bhagavato paccassosuṃ.|| || Bhagavā etad avoca:||
Chính tại nơi đó Đức Thế Tôn gọi các tỳkhưu rằng:Này các tỳkhưu

. Dasayime bhikkhave dhammā pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbā. Katame dasa?
Này các Tỷ-kheo, có mười pháp này, vị xuất gia phải luôn luôn quán sát. Thế nào là mười ?

1- "Vevaṇṇiyamhi ajjhupagato"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
1) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Ta nay đi đến tình trạng là người không có giai cấp" (mất hết giai cấp).

2- "Parapaṭibaddhā me jīvikā"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
2) Vị xuất gia phải luôn luôn quán sát : "Đời sống của ta tùy thuộc vào người khác."

3- "Añño me ākappo karaṇīyo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
3) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Nay cử chỉ uy nghi của ta cần phải thay đổi ! "

4- "Kacci nu kho me attā sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
4) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Không biết tư ngã có chỉ trích ta về giới hạnh không ? "

5- "Kacci nu kho maṃ anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadatī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
5) Vị xuất gia cần luôn luôn quán sát : "Không biết các đồng Phạm có trí, sau khi tìm hiểu, có chỉ thích ta về giới hạnh không ? "

6- "Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhā-vo"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
6) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Mọi sự vật khả ái, khả ý của ta bị đổi khác, bị biến hoại".

7- "Kammassako’mhi kammadāyako kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
7) Vị xuất gia cần phải quán sát : "Ta là chủ của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. là thai tạng của nghiệp, là bà con của nghiệp. là chỗ quy hướng của nghiệp ; phàm nghiệp gì ta sẽ làm, thiện hay ác ta sẽ thừa tự nghiệp ấy".

8- "Kathaṃ bhūtassa me rattindivā vītivattantī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
8) Vị xuất gia cần phải luôn quán sát : "Đêm ngày trôi qua bên ta và nay ta đã thành người như thế nào ?

9- "Kacci nu kho ahaṃ suññāgāre abhiramāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
9) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có cố gắng hoan hỷ trong ngôi nhà trống không hay không ? "

10- "Atthi nu kho me uttarimanussadhammo, alamariyañāṇadassanaviseso adhigato, yenāhaṃ pacchime kāle sabrahmacārīhi puṭṭho, na maṅku bhavissāmī"ti pabbajitena abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ.
10) Vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát : "Ta có chứng được pháp Thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh không, để đến những ngày cuối cùng, các đồng Phạm hạnh có hỏi, ta sẽ không có xấu hổ ? "

Ime kho bhikkhave dasa dhammā||
Này các Tỷ-kheo, mười pháp này, vị xuất gia cần phải luôn luôn quán sát.

pabba-jitena abhiṇhaṃ pacc'avekkhitabbā" ti.|| ||
Thế Tôn đã nói. Những vị tỳ khưu vui mừng trước những lời của Đức Thế Tôn.

Notes

1.
A. v. 87.
2.
Literally action — mental, verbal, and physical.

2. Hạnh Phúc Kinh (Maha-mangala Sutta [1])  

Ta (là A nan Ðà) có nghe như vầy:

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi:
Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ-Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc gần thành Xá-Vệ (Sāvatthi). Khi ấy, có vị Trời chiếu hào-quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ-Viên sáng ngời rực-rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng. Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:

1)Bahū devā manussā ca, Maṅgalāni acintayuṃ, Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ, Brūhi maṅgalamuttamaṃ.
Tất cả Chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng Bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

2)Asevanā ca bālānaṃ, Paṇḍitānañca sevanā, Pūjā ca pūjanīyānaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ. Hai: tư cách thân-cận các bậc Trí tuệ. Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao-thượng..

3)Paṭirūpadesavāso ca, Pubbe ca katapuññatā, Attasammāpaṇidhi ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tư cách ở trong nước nên ở. Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước. Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

4) Bāhusaccañca sippañca, Vinayo ca susikkhito, Subhāsitā ca yā vācā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng. Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia. Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín-chắn. Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật, Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

5) Mātāpitu upaṭṭhānaṃ, Puttadārassa saṅgaho, Anākulā ca kammatā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh phụng sự Mẹ. Hai: nết hạnh phụng sự Cha. Ba: sự tiếp độ Vợ Con. Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

6) Dānañca dhammacariyā ca, Ñātakānañca saṅgaho, Anavajjāni kammāni, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh bố thí. Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp. Ba: sự tiếp độ quyến thuộc. Bốn: những nghề vô tội. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

7) Āratī viratī pāpā, Majjapānā ca saññamo, Appamādo ca dhammesu, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi. Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu. Ba: sự không dể duôi Phật Pháp. Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

8) Gāravo ca nivāto ca, Santuṭṭhī ca kataññutā, Kālena dhammassavanaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính. Hai: nết hạnh khiêm nhượng. Ba: tri túc đến của đã có. Bốn: nết hạnh biết đền ơn người. Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp. Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

9) Khantī ca sovacassatā, Samaṇānañca dassanaṃ, Kālena dhammasākacchā, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự nhịn nhục. Hai: nết hạnh người dễ dạy. Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-Môn. Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

10. Tapo ca brahmacariyañca, Ariyasaccāna dassanaṃ, Nibbānasacchikiriyā ca, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác. Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng. Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu-đế. Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

11) Phuṭṭhassa lokadhammehi, Cittaṃ yassa na kampati, Asokaṃ virajaṃ khemaṃ, Etammaṅgalamuttamaṃ.
Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian. Hai: không có sự uất ức. Ba: dứt khỏi tình dục. Bốn: lòng tự tại. Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

12) Etādisāni katvāna, Sabbatthamaparājitā, Sabbattha sotthiṃ gacchanti, Tantesaṃ maṅgalamuttaman’ti.
Tất cả Chư Thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên nầy! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.

Notes

1.
Khp. No. 5; Sn. 46 under the title Mangala sutta; cf. Mahamangala Jataka No. 452.
2.
The vicissitudes are eight in number: gain and loss, good-repute and ill-repute, praise and blame, joy and sorrow. This stanza is a reference to the state of mind of an arahant, the Consummate One.

3. Kinh Châu Báu (Ratana Sutta [1])  

Dựa theo chú giải nói về nhân duyên cớ có bài kinh này như sau: Thành phố Vesali bị nạn đói hoành hành, gây chết chóc, đặc biệt là đối với những người dân nghèo. Do sự hiện diện của những xác chết đang phân hủy, các linh hồn ma quỷ bắt đầu ám ảnh thành phố; sau đó là một trận dịch hại. Bị kìm hãm bởi ba nỗi sợ hãi về nạn đói, ma quỷ và dịch bệnh, người dân đã tìm đến Đức Phật khi đó đang sống tại Rajagaha xin được giúp đỡ.

Đức Phật đã đền thành phố Vesali, theo sau là một số lượng lớn chư Tăng, trong đó có Tôn giả Ananda, đệ tử thị giả của Ngài. Với sự xuất hiện của Đức Phật, có những cơn mưa lớn cuốn trôi những xác chết đang bị phân hủu. Bầu không khí trở nên trong sạch, thành phố sạch sẽ.

Ngay sau đó, Đức Phật đã giao bài Châu Báu này (kinh Ratana [2]) cho Đại đức Ananda, và chỉ dẫn cho Ananda về cách cùng với những người dân Licchavi đi quanh thành phố và cùng đọc tụng bài kinh này như một dấu hiệu bảo vệ người dân Vesali. Tôn giả Ananda làm theo lời chỉ dẫn, và rưới nước thánh từ bát khất thực của chính Đức Phật. Kết quả là các linh hồn ma quỷ bị xua đuổi, dịch bệnh giảm bớt. Sau đó, Tôn giả Ananda cùng với những người dân của Vesali trở lại Đại sảnh đường nơi Đức Phật và các đệ tử của Ngài đã tập họp để chờ Ngài đến. Tại đó, Đức Phật đã cùng một bài Kinh Châu Báu tụng đọc cho đại chúng: [3]

1. Yānīdha bhūtāni samāgatāni Bhummāni vā yāni va antalikkhe Sabbeva bhūtā sumanā bhavantu Atho pi sakkacca sunantu bhāsitam

Hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta là Chư Thiên ngự trên hư không thế giới, mà đến hội họp nơi đây. Cầu xin tất cả hạng Bhūta ấy, mở lòng từ thiện, và đem lòng thành kính mà nghe Phật ngôn.

2. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe Mettam karotha mānusiyā pajāya Divā ca ratto ca haranti ye balim Tasmā hi ne rakkhatha appamattā

Tất cả chư bhūta được nghe kinh PARITTA rồi, nên mở lòng Bác ái đối với chúng sanh, thuộc về nhơn loại, là những người hằng đem của bố thí đêm ngày không dứt.

3. Yam kiñci vittam idha vā huram vā Saggesu vā yam ratanam panītam Na no samam atthi tathāgatena Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Vì đó, các Ngài chẳng nên lãnh đạm, cầu xin hộ trì những người ấy. Tài sản trong thế gian nầy, hoặc trong thế giới khác hoặc trân châu quý trọng trên Thiên thượng. Cả tài sản và trân châu ấy, cũng chẳng sánh bằng Đức Như Lai.

4. Khayam virāgam amatam panītam Yadajjhagā sakyamuni samāhito Na tena dhammena sam’atthi kiñci Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Giáo-chủ SAKYAMUNI là bậc thanh tịnh, đại ngộ các pháp diệt trừ phiền não, dứt khỏi tình dục, là Pháp bất diệt, là Pháp cao thượng. Chẳng có chi sánh bằng Pháp ấy. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

5. Yam buddhasettho parivannayi sucim Samādhi-mānantari-kañña-māhu Samādhinā tena samo na vijjati Idam pi dhamme ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Phật cao thượng hằng khen ngợi Pháp Thiền định (SAMĀDHI) là Pháp trong sạch. Các bậc Trí tuệ, đã giảng giải về Pháp Chánh Định là Pháp sanh quả theo thứ tự. Thiền định khác chẳng thể sánh bằng. Pháp-Bảo nầy như trân châu quý báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

6. Ye puggalā attha satam pasatthā Cattāri etāni yugāni honti Te dakkhineyyā sugatassa sāvakā Etesu dinnāni mahapphalāni Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Những hạng tu hành có 8 bậc, mà các Thiện trí thức đã ngợi khen, các bậc ấy đều là Thinh Văn, đệ tử của Đức SUGATO [9], các Ngài đáng thọ lãnh những vật thí, của người tin lý nhân quả đem đến dâng cúng. Những sự bố thí đến các bậc (DAKKHIṆEYYA PUGGALĀ) [10], là việc bố thí được kết quả rất nhiều hạnh phúc. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

7. Ye suppayuttā manasā dalhena Nikkāmino gotama sāsanamhi Te pattipattā amatam vigayha Laddhā mudhā nibbutim bhuñjamānā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Các bậc Thánh nhơn trong giáo Pháp của Đức Chánh-Biến-Tri hiệu GOTAMA [11], đã hành theo lẽ chánh rồi có lòng bền chắc, chẳng còn ái dục. Các bậc Thánh nhơn ấy đã chứng quả A-LA -HÁN, đã nhập Niết-bàn, đã tắt lửa phiền não, và đã hưởng đạo-quả rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

8. Yathindakhīlo pathavim sito siyā Catubbhi vātehi asampakampiyo Tathūpamam sappurisam vadāmi Yo ariyasaccāni avecca passati Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Cột cừ đã đóng cứng dưới đất, dầu gió 4 phương cũng không lay động, thế nào. Người hay suy xét thấy các Pháp Diệu-Đế, Như Lai gọi người ấy là bậc Thiện Trí Thức, hạng không tham nhiễm các Pháp thế gian, ví như cột cừ kia vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

9. Ye ariyasaccāni vibhāvayanti Gambhīrapaññena sudesitāni Kiñcāpi te honti bhusappamattā Na te bhavam atthamam ādiyanti Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Các bậc Thánh nhơn thấy rõ các Pháp Diệu-Đế. Mà Đức Như Lai có Trí tuệ thậm-thâm đã giảng dạy đứng đắn. Các bậc Thánh nhơn ấy dầu có dể duôi, cũng chẳng thọ sanh đến kiếp thứ 8, là chẳng luân hồi quá 7 kiếp. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

10. Sahāvassa dassana sampadāya Tayassu dhammā jahitā bhavanti Sakkāyaditthi vicikicchitañ ca Sīlabbatam vāpi yadatthi kiñci Catūhapāyehi ca vippamuto Cha cābhithānāni abhabbo kātum Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatti hotu

Bậc được chứng đạo-quả Tu-Đà-Hườn, thì đã dứt khỏi 3 phép chướng ngại thường có là Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ. Bậc Tu-Đà-Hườn đã thoát khỏi cả 4 đường dữ, không còn phạm 6 điều ác, là 5 tội đại nghịch, và cách xu hướng theo ngoại-đạo. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

11. Kiñcāpi so kammam karoti pāpakam Kāyena vācā uda cetasā vā Abhabbo so tassa paticchādāya Abhabbatā ditthapadassa vuttā Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Nếu bậc Tu-Đà-Hườn vô tâm phạm điều tội lỗi do thân, khẩu, ý, các Ngài cũng chẳng giấu giếm. Nết hạnh của bậc đã thấy đạo quả Niết-bàn, bậc không có thể giấu kín nghiệp dữ, mà Đức Phật đã giảng dạy rồi. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

12. Vanappagumbe yathā phussitagge Gimhānamāse pathamasmim gimhe Tathūpamam dhammavaram adesayi Nibbānagāmim paramam hitāya Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Pháp cao thượng mà đức Chánh-Biến-Tri đã giảng giải, là Pháp có thể tiếp dẫn chúng sanh đến Niết-bàn, cho được sự lợi ích cao thượng. Pháp ấy ví như cây trong rừng, sanh chồi trong đầu mùa hạn. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

13. Varo varaññū varado varāharo Anuttaro dhammavaram adesayi Idam pi Buddhe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Đức Chánh-Biến-Tri là bậc cao thượng, Ngài suốt thông Pháp cao thượng, Ngài thí Pháp cao thượng, Ngài đem đến Pháp cao thượng. Ngài là bậc vô thượng, đã diễn thuyết các pháp cao thượng. Đức Phật nầy như trân châu quí báu cao thượng. Tôi xin thành thật, cầu được phát sanh thạnh lợi.

14. Khīnam purānam navam natthi sambhavam Viratta cittā āyatike bhavasmim Te khīnabījā avirūlhicchandā Nibbanti dhīrā yathā’yam padīpo Idam pi sanghe ratanam panītam Etena saccena suvatthi hotu

Nghiệp cũ của các bậc Thánh nhơn đã dứt hẳn rồi, nghiệp mới cũng chẳng phát sanh. Các bậc Thánh nhơn nào đã chán nãn trong việc thoát sanh. Hạt giống đã đoạn tận, lòng dục không tăng trưởng. Là bậc có Trí tuệ thường được viên tịch cũng như ngọn đèn tắt vậy. Đức Tăng nầy như trân châu quí báu cao thượng.

15. Yānīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Phật, là các đấng Giáo Chủ đã được chứng quả giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

16. Yanīdha bhūtāni samāgatāni, Bhummāni vā yāniva antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ các Pháp đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

17. Yānīdha bhūtāni sāmāgatāni, Bhummāni vā yāni va antalikkhe, Tathāgataṃ devamanussapūjitaṃ, Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.

Hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên địa cầu, hoặc hạng Bhūta nào là Chư Thiên ngự trên hư không, mà đến hội họp nơi đây, xin đồng cùng chúng tôi làm lễ Chư Tăng đã có giống nhau, mà Chư Thiên cùng nhơn loại thường hay cúng dường, cầu xin được phát sanh thạnh lợi.

Notes

1.
Khp. No. 6; Sn. 39
2.
Ratana means precious jewel. Here the term is applied to the Buddha, Dhamma, and Sangha.
3.
KhpA. 161.
4.
Literally, in the Buddha is this precious jewel.
5.
Literally, in the Dhamma is this precious jewel.
6.
Literally, in the Sangha is this precious jewel.
7.
Obtained without payment; "avyayena," KhpA. I., 185.
8.
The reason why it is stated that there will be no eighth existence for a person who has attained the stage of sotapatti or the first stage of sanctity is that such a being can live at the most for only a period of seven existences in the realm of sense spheres.
9.
Abhithanani; i. matricide, ii. patricide, iii. the murder of arahants (the Consummate Ones), iv. the shedding of the Buddha's blood, v. causing schism in the Sangha, and vi. pernicious false beliefs (niyata micca ditthi).
10.
He is a sotapanna, stream-enterer, one who has attained the first stage of sanctity. Also see Notes at the end of the book.
11.
The last three stanzas were recited by Sakka, the chief of Devas (gods), KhpA. 195.

4. Từ Bi Kinh (Karaniya Metta Sutta [1])  

Trong khi Đức Phật ở tại Savatthi, một nhóm tỳ khưu, sau khi nhận được các đề mục thiền định, đã đến khu rừng để an cư mùa mưa (vassana). Các vị thần cây sống trong khu rừng này lo lắng khi họ đến, vì họ phải xuống khỏi gốc cây và trú ngụ trên mặt đất. Tuy nhiên, các vị thần hy vọng các vị tỳ khưu sẽ sớm ra đi; nhưng nhận thấy rằng các vị tỳ khưu sẽ ở lại suôt mùa an cư vassana trong ba tháng, nên các vị thần ban đêm đã quấy rối họ bằng nhiều cách khác nhau với ý định xua đuổi các vị tỳ khưu.

Không thể sống trong những điều kiện như vậy, các vị tỳ khưu đã đến gặp Đức Phật trình bày những khó khăn của họ. Đức Phật đã hướng dẫn họ tụng đọc bài kinh Từ Bi và khuyên họ trở về tụng đọc bài kinh này để bảo vệ họ.

Các vị tỳ khưu quay trở lại khu rừng, và thực hành việc trì tụng kinh Từ Bi ban trải tràn ngập khắp bầu không khí với những lòng từ bi của họ. Các vị thần bị ảnh hưởng bởi sức mạnh của tâm từ này, do đó đã cho phép họ thiền định trong thanh tịnh.

Bài kinh được chia thành hai phần. Phần đầu nêu chi tiết về tiêu chuẩn đạo đức cần có của một người mong muốn đạt được Thanh tịnh và bình yên, và phần thứ hai là phương pháp thực hành rải tâm từ. [2]

1) Karaṇīyamatthakusalena, Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca, Sakko ujū ca suhujū ca, Suvaco cassa mudu anatimānī.

1) Do sự nào mà bậc Thánh nhơn được Giác Ngộ các Pháp yên lặng là Niết-bàn, người rõ biết trong việc hữu ích nên hành sự ấy, người ấy là bậc dõng cảm thân khẩu ý chân chánh và trong sạch, là người dễ dạy, có tánh nết nhu thuận, không ngã mạn thái quá.

2) Santussako ca subharo ca, Appakicco ca sallahukavutti, Santindriyo ca nipako ca, Appagabbho kulesu ananugiddho.

2) Là người tri túc dễ nuôi, là người ít bận việc, và thân tâm nhẹ nhàng, là người có lục căn thanh tịnh, có nhiều Trí tuệ, là người có liêm sĩ, không quyến luyến theo thân bằng quyến thuộc.

3) Na ca khuddaṃ samācare kiñci, Yena viññū pare upavadeyyuṃ, Sukhino vā khemino hontu, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

3) Các bậc Thiện Trí Thức hằng chê bai các chúng sanh tạo những nghiệp không nên làm, là nghiệp xấu xa hèn hạ dầu là nhỏ nhen chút ít mà nên rải lòng Bác ái đến các hạng chúng sanh như vầy:

4) Ye keci pāṇabhūtatthi, Tasā vā thāvarā vā anavasesā, Dīghā vā ye mahantā vā, Majjhimā rassakā aṇukathūlā.

4) Cầu cho tất cả chúng sanh đều được an vui thong thả, thân tâm được nhiều hạnh phúc, tất cả chúng sanh không dư sót, dầu là chúng sanh có sự kinh sợ, là còn lòng ham muốn, hoặc là bậc Hiền triết đã dứt lòng ham muốn.

5) Diṭṭhā vā yeva adiṭṭhā, Ye ca dūre vasanti avidūre, Bhūtā vā sambhavesī vā, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

5) Chúng sanh nào có thân hình dài hoặc lớn, có thân hình bậc trung hoặc vắn, có thân hình gầy hoặc béo, chúng sanh mà ta đã thấy hoặc không thấy được, chúng sanh ngụ nơi xa hoặc gần, đã sanh ra rồi hoặc còn đang tìm nơi thọ sanh.

6) Na paro paraṃ nikubbetha, Nātimaññetha katthaci naṃ kiñci, Byārosanā paṭighasaññā, Nāññamaññassa dukkhamiccheyya.

6) Chúng sanh chẳng nên dọa hẩm làm khổ chúng sanh khác, chẳng nên khinh bỉ chút ít kẻ khác trong nơi nào cả, chẳng nên muốn làm khổ lẫn nhau vì sự nóng giận hoặc bất bình là sự bực tức trong tâm.

7) Mātā yathā niyaṃ puttaṃ, Āyusā ekaputtamanurakkhe, Evampi sabbabhūtesu, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.

7) Người mẹ thà liều chết để bảo dưỡng con đẻ là con một, là dám bỏ sanh mạng trong sự bảo dưỡng con thế nào, Người nên niệm lòng Bác ái vô lượng vô biên để rải đến tất cả chúng sanh cũng như thế ấy.

8) Mettañca sabbalokasmiṃ, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ, Uddhaṃ adho ca tiriyañca, Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ

8) Người nên niệm tâm Bác ái vô lượng vô biên, là Pháp không nóng giận, không bất bình, không thù oán, không bạn nghịch, để rải trong tất cả thế giới, là rải bên trên, bên dưới, bên ngang và khoảng giữa.

9) Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā, Sayāno vā yāvatassa vigatamiddho, Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, Brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu.

9) Người niệm lòng Bác ái ấy dầu đứng, đi, ngồi hoặc nằm, là người đã dứt bỏ sự hôn-trầm, là người chẳng còn ngủ mê, đến đâu nên thành tâm thường niệm lòng Bác ái đến đó, các bậc trí thức gọi những tư cách ấy, là Pháp vô lượng tâm trong Phật Pháp.

10) Diṭṭhiñca anupagamma, Sīlavā dassanena sampanno, Kāmesu vineyya gedhaṃ, Na hi jātu gabbhaseyyaṃ punaretīti.

10) Người có vô lượng tâm Bác ái, không tà kiến, là người có Trì Giới, có chánh kiến, là người đắc Tu-Đà-Hườn đạo, đã dứt bỏ sự say mê theo ngũ trần rồi.

5. Kinh Hộ Trì Các Uẩn (Khandha Paritta )

Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhū ahinā daṭṭho kālakato hoti. Atha kho sambahulā bhikkhū yena Bhagavā ten’upasaṅkamiṁsu. Upasaṅkamitvā Bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū Bhagavantaṁ etadavocuṁ.

Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn chết. Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

Idha bhante Sāvatthiyaṁ aññataro bhikkhu ahinā daṭṭho kālakato’ti.

-" Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sàvatthi bị rắn cắn đã mệnh chung."

Naha nūna so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sacehi so bhikkhave bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, nahi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Katamāni cattāri ahirājakulāni? Virūpakkhaṁ ahirājakulaṁ, Erāpathaṁ ahirājakulaṁ, Chabyāputtaṁ ahirājakulaṁ, Kaṇhā gotamakaṁ ahirājakulaṁ. Naha nūna so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari. Sace hi so bhikkhave bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, na hi so bhikkhave bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṁ kareyya. Anujānāmi bhikkhave imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena pharituṁ attaguttiyā attarakkhāya attaparittāyā’ti. Idam’avoca Bhagavā, Idaṁ vatvā Sugato athāparaṁ etada’voca Satthā.

Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn ? -Gia đình vua các loài rắn Virùpakkha, -Gia đình vua các loài rắn Eràpattha, -Gia đình vua các loài rắn Chabyàputta, -Gia đình vua các loài rắn Kanhàgotamaka; Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này. Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung. Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở.

1. Virūpakkehi me mettaṁ – Mettaṁ Erāpathehi me
Chabyāputtehi me mettaṁ – Mettaṁ Kaṇhāgotamakehi ca

2. Apādakehi me mettaṁ – Mettaṁ dipādakehi me
Catuppadehi me mettaṁ – Mettaṁ bahuppadehi me

3. Mā maṁ apādako hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi dipādako
Mā maṁ catuppado hiṁsi – Mā maṁ hiṁsi bahuppado

4. Sabbe sattā sabbe pāṇā – Sabbe bhutā ca kevalā
Sabbe bhadrāni passantu – Mā kañci pāpamāgamā

Ta hãy có từ tâm
Với Virùpakkha,
Ta hãy có từ tâm
Với Eràpatha,
Ta hãy có từ tâm
Với Chabyaputta,
Ta hãy có từ tâm
Với Kanhàgotamaka,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,
Mong rằng loài không chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài hai chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài bốn chân
Không có làm hại ta,
Mong rằng loài nhiều chân
Không có làm hại ta,
Mọi chúng sanh, hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.

Appamāṇo Buddho appamāṇo Dhammo appamāṇo Saṅgho. Pamāṇavantāni siriṁsapāni ahi vicchikā satapadī uṇṇānābhī sarabhū mūsikā. Katā me rakkhā. Katā me parittā. Paṭikkamantu bhūtāni. So’haṁ namo Bhagavato namo sattannaṁ Sammā Sambuddhānan’ti.

Đức Phật là vô lượng, Pháp là vô lượng, Chúng Tăng là vô lượng, Có lượng là các loài bò sát, Các loài rắn, Các con bò cạp, Các con một trăm chân, Các loại nhện giăng tơ, Các con thằn lằn và các loài chuột. Ta đã làm sự hộ trì. Ta đã làm sự che chở, Mong rằng các loài hữu tình sẽ bỏ đi. Ta đảnh lễ đức Thế Tôn. Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác

Kinh Vua Các Loài Rắn - Ahina Sutta(AN IV.67

6. Bài giảng về Ưu điểm của Lòng Từ (Mettanisamsa Sutta)

Tôi nghe như vầy: Vào một dịp nọ, Đức Thế Tôn đang sống gần thành Xá Vệ (Savatthi) tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) tại tu viện của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Sau đó, ông nói với các vị Tỳ Khưu: "Này các Tỳ Khưu ." - "Dạ, Bạch Đức Thế Tôn,” các Tỳ kheo đáp lại. Sau đó Đức Thế Tôn nói như sau:

"Này các Tỷ Kheo, có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng. Mười một là gì?

1) Sukhaṁ supati. 2) Sukhaṁ paṭibujjhati. 3) Na pāpakaṁ supinaṁ passati. 4) Manussānaṁ piyo hoti. 5) Amanussānaṁ piyo hoti. 6) Devatā rakkhanti. 7) Nâssa aggi vā visaṁ vā satthaṁ vā kamati. 8) Uttariṁ appaṭivijjhanto brahma,lokûpago hoti.

Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng được loài Người ái mộ, được phi nhân ái một, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám ; nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả) ; được sanh lên Phạm thiên giới.

có mười một lợi thế được mong đợi từ việc giải thoát tâm bằng cách thực hành lòng từ (metta), tu tập lòng từ, làm cho sung mãn, bằng cách liên quan đến lòng từ như một phương tiện (biểu hiện), và cũng là một thứ đáng được trân trọng, bằng cách an trú với lòng từ, bằng cách đưa những ý tưởng này vào thực tế, và bằng cách thiết lập chúng.

Thế Tôn nói như vậy. Những vị Tỳ Kheo hoan hỉ trước những lời của Đức Thế Tôn.

7. Ưu Điểm Của Tình Bạn (Mittanisamsa)  

Mười câu kệ này kể lại những tác dụng hữu ích của tình bạn, được tìm thấy trong Magapakkha (Temiya) Jataka, vol. vii. Số 538.

1) Pahūta-bhakkho bhavatī - Vippavuttho sakā gharā
Bahū nam upajīvantī - Yo mittānam na dūbhatī

1) Người giữ tình bạn chân chính (không phản bội bạn bè), bất cứ khi nào anh ta đi xa khỏi nhà của mình, sẽ nhận được sự hiếu khách dồi dào. Nhiều người sẽ được sống nhờ anh ta.

2) Yam yam janapadam yātī - Nigame rājadhāniyo
Sabbattha pūjito hoti - Yo mittānam na dūbhati

2) Người giữ tình bạn chân chính, dù ở bất kỳ quốc gia, làng mạc hay thị trấn nào mà anh ta đến thăm, sẽ được tôn kính.

3) Nāssa corā pasahanti - Nātimaññeti khattiyo
Sabbe amitte tarati - Yo mittānam na dūbhati

3) Người giữ tình bạn chân chính - những tên cướp sẽ không chế ngự được anh ta. Những người có địa vị sẽ không coi thường anh ta. Anh ta sẽ chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.

4) Akkuddho sagharam eti - Sabhāya patinandito
Ñātīnam uttamo hoti - Yo mittānam na dūbhati

4) Người giữ tình bạn chân chính, trở về nhà với cảm giác thân thiện, vui vẻ trong đám đông của mọi người, và trở thành người đứng đầu trong số họ hàng của mình.

5) Sakkatvā sakkato hoti - Garu hoti sagāravo
Vanna-kittibhato hoti - Yo mittānam na dūbhati

Người giữ tình bạn chân chính, hiếu khách với người khác, đến lượt mình, sẽ nhận được sự hiếu khách. Tôn trọng người khác sẽ nhận được sự tôn trọng. Anh ấy có được lời khen ngợi và sự nổi tiếng.

6) Pūjako labhate pūjam - Vandako pati-vandanam
Yaso kittiñca pappoti - Yo mittānam na dūbhati

Người giữ tình bạn chân thành, khi cho đi, cùng một lúc, nhận được quà. Tôn kính người khác, cùng một lúc chính mình cũng được tôn kính. Anh ta đạt được sự thịnh vượng và nổi tiếng.

7) Aggi yathā pajjalati - Devatā’va virocati
Siriyā ajahito hoti - Yo mittānam na dūbhati

7) Người giữ tình bạn chân chính, tỏa sáng (trong vinh quang) như ngọn lửa, và rạng rỡ như một vị thần. Không bao giờ sự thịnh vượng sẽ từ bỏ anh ta.

8) Gāvo tassa pajāyanti - Khette vuttham virūhati
Puttānam phalamasnāti - Yo mittānam na dūbhati

8) Người giữ tình bạn chân chính, sẽ có nhiều gia súc sinh sản cho anh ta. Những gì được gieo trên đồng ruộng sẽ nảy nở. Người ấy được hưởng quả phước.

9) Darito pabbatāto vā - Rukkhāto patito naro
Cuto patittham labhati - Yo mittānam na dūbhati

9) Người giữ tình bạn chân chính, nếu anh ta rơi từ giốc thẳng, núi hoặc cây, anh ta sẽ được bảo vệ (sẽ không bị tổn hại).

10) Virūlha-mūla-santānam - Nigro-dhamiva māluto
Amittā nappa-sahanti - Yo mittānam na dūbhati

10) Người giữ tình bạn chân chính không thể bị kẻ thù lật đổ như khi cây đa có rễ sâu cũng không thể bị gió quật đổ.

8. Kinh Khổng Tước (Mora Paritta [1])  

1. Udet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu divasaṁ.

1.Ở đó có người với sắc màu vàng chói, người có tầm nhìn, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi ngưỡng mộ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất (chính là mặt trời đang được nói đến). Tôi tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống ngày này an toàn trọn ngày

2. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā.

Imaṁ so parittaṁ katvā moro carati esanā.

2. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật, những người đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu hiểu tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), giác ngộ của họ (bốn Đạo và bốn Quả). Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ.

Sau khi đọc lên chú bảo hộ này, chim khổng tước đi kiếm mồi..

3. Apet’ayaṁ cakkhumā ekarājā – Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso Taṁ taṁ namassāmi harissavaṇṇaṁ paṭhavippabhāsaṁ. Tay’ajja guttā viharemu rattiṁ.

3. Ở đó, người với sắc màu vàng chói, người có thị giác, người là quốc vương duy nhất, người chiếu sáng trái đất. Con tôn thờ ngài, người có màu vàng rực rỡ chiếu sáng trái đất. Được bảo vệ bởi Ngài, chúng con sống an toàn trọn đêm.

4. Ye brāhmaṇā vedagu sabbadhamme – Te me namo te ca maṁ pālayantu. Namatthu Buddhānaṁ namatthu bodhiyā – Namo vimuttānaṁ namo vimuttiyā Imaṁ so parittaṁ katvā moro vāsamakappayī’ti.

4. Cầu mong sự tôn thờ của con đến Chư Phật đã đạt được Giác ngộ bằng cách thấu suốt tất cả các pháp. Mong họ bảo vệ con. Cầu mong sự tôn thờ của con đối với chư Phật (quá khứ), đến sự giác ngộ của họ. Cầu mong sự tôn thờ của con dành cho những người được bảo đảm tối cao khỏi sự trói buộc (các vị Phật) và sự Giải thoát của họ. Sau khi thực hiện sự bảo vệ này, con công đã trải qua cuộc sống của mình hạnh phúc.

Notes - HỘ CHÚ KHỔNG TƯỚC

1.
Bản tiếng Pali-Anh: Moraparitta, Paritta Chanting, Wat Bukit Perak.
Việt dịch: Tống Phước Khải
 ii. 23; No. 159.
2.
Udetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.

Apetayañcakkhumā ekarājā
Harissavaṇṇo paṭhavippabhāso
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ
Tayajja guttā viharemu divasaṃ
Ye Brāhmaṇā vedagu sabbadhamme
Te me namo te ca maṃ pālayantu
Namatthu Buddhānaṃ, nammtthu Bodhiyā
Namo Vimuttānaṃ namo Vimuttiyā.
Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayīti.

NGHĨA BÀI CHÚ

Kìa Ngài vừa mới mọc, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn ngày luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.

Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công bay đi tìm mồi.

Kìa Ngài đang lặn xuống, vị vua mắt chói chang. Chiếu ánh sáng rực rỡ, trên toàn cõi thế gian. Xin Ngài hãy bảo hộ, trọn đêm luôn bình an. Nay tôi xin đảnh lễ, chư vị Bà La Môn, thành tựu sự Tự Tại, do liễu tri mọi Pháp, hãy bảo hộ cho tôi. Xin đảnh lễ Chư Phật, đảnh lễ hạnh Bồ Đề. Đảnh lễ bậc Giải Thoát, đảnh lễ sự Giải Thoát.

Sau khi thực hiện việc bảo hộ xong, chim công nghỉ ngủ yên lành tại nơi trú ngụ.

GHI CHÚ:

Bài hộ chú này được Đức Phật Thích Ca thuyết giảng khi có một vị Tỳ Kheo trong Tăng Đoàn bị quyến rũ bởi nữ sắc.
Đức Phật kể lại tiền kiếp của mình từng là chim công vàng sống trên đỉnh núi. Mỗi sáng trước khi đi tìm mồi, chim công đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Buổi chiều về, trước khi vào tổ, chim công lại đậu trên đỉnh núi nhìn về phía mặt trời và tụng bài chú. Đã có nhiều thợ săn đặt bẫy bắt chim công, nhưng do oai lực của bài chú chim công không thể rơi vào bẫy. Mãi về sau, hôm nó vào sáng sớm, chưa kịp trì chú thì công vàng đã bị một công mái - do một thợ săn sắp đặt - quyến rũ và bị rơi vào bẫy. Thợ săn mang chim công về cho vua, chim công đã kể cho vị vua này nghe tiền kiếp của mình cũng từng là một vị vua, để xác thực lời nói, chim công bảo rằng bên dưới hồ nước của hoàng cung trước có chôn một cỗ xe và bảo vua đào lên sẽ rõ. Mọi việc sau đó đúng như lời chim công nói và vua đã thả chim công trở về núi.
Theo truyền thống Phật Giáo Theravada, sáng sớm khi mặt trời mọc thì trì tụng phần đầu của bài chú, buổi chiều khi mặt trời lặn thì trì tụng phần sau. Công năng của bài chú được tin rằng sẽ giúp tránh được những hiểm họa và cạm bẫy, còn nếu bị rơi vào cạm bẫy thì sẽ được giải thoát an toàn.

9. Kinh Nguyệt Thiên Tử - Candima Sutta (Canda Paritta [1])  

Trong vũ trụ học của Ấn Độ, các hành tinh chính được coi là các vị thần hoặc các vị thần. Đôi khi quan điểm này, mở rộng đến cách nói thông thường của ngày nay, ví dụ, "thần mưa", "thần mặt trời", v.v. Đức Phật không có khuynh hướng bình luận về những quan điểm này, và vì vậy Ngài chỉ bằng lòng với việc chỉ bày tỏ thông điệp của Giáo pháp qua thuyết chiết trung của những quan điểm này.

Tôi nghe như vầy: Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ). Lúc bấy giờ, Thiên tử Candima bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Candima, tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:

i. Đảnh lễ đấng Giác Ngộ, Bậc Anh Hùng muôn thuở, Ngài là bậc Giải Thoát, Thoát ly thật viên mãn, Còn con bị trói buộc, Hãy cho con quy ngưỡng.

Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Candima, nói lên bài lệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:

ii Canda đã quy y, Như Lai, bậc La-hán, Ràhu, hãy thả nó, Vì chư Phật thương đời.

Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Candima. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la, run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:

iii Vì sao, như hốt hoảng, Ràhu thả Canda, Ông đến, lòng run sợ, Ông đứng, tâm kinh hoàng?

iv Đầu con bể thành bảy, Đời con không hạnh phúc, Với lời kệ đức Phật, Nếu không thả Canda.

Evaṁ me sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Candimā devaputto Rāhunā asurindena gahito hoti. Atha kho Candimā devaputto Bhagavantaṁ anussaramāno tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi.

Namo te Buddha vīra’tthu – Vippamutto’si sabbadhi Sambādhapaṭipanno’smi – Tassa me saraṇaṁ bhavā’ti

Atha kho Bhagavā Candimaṁ devaputtaṁ ārabbha Rāhuṁ asurindaṁ gāthāya ajjhabhāsi.

Tathāgataṁ Arahantaṁ – Candimā saraṇaṁ gato Rāhu candaṁ pamuñcassu – Buddhā lokānukampakā’ti

Atha kho Rāhu asurindo Candimaṁ devaputtaṁ muñcitvā taramānarūpo yena Vepacitti asurindo ten’upasaṅkami. Upasaṅkamitvā saṁviggo lomahaṭṭajāto ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho Rāhuṁ asurindaṁ Vepacitti asurindo gāthāya ajjhabhāsi.

Kinnu santaramāno’va – Rāhu, Candaṁ pamuñcasi? Saṁviggarūpo āgamma – Kinnu bhīto’va tiṭṭhasī’ti?

Sattadhā me phale muddhā – Jīvanto na sukhaṁ labhe Buddhagāthābhigīto’mhi – No ce muñceyya Candiman’ti.

Xem Tiếp Phần I I


Thứ Ba, 5 tháng 7, 2022

Kinh Paritta - Kinh Thánh Hộ Trì - Phần I I

 Kinh Paritta - Kinh Thánh Hộ Trì - The Book of Protection - Phần I I

 

10. Kinh Nhật Thiên Tử - Suriya Sutta (SN 2.10) (Suriya Paritta)

Evaṁ me sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Sāvatthiyaṁ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena Suriyo devaputto Rāhunā asurindena gahito hoti. Atha kho Suriyo devaputto Bhagavantaṁ anussaramāno tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi.

Tôi nghe như vầy:Lúc bấy giờ, Thiên tử Suriya bị Ràhu, vua A-tu-la bắt. Rồi Thiên tử Suriya tưởng niệm đến Thế Tôn, trong lúc ấy nói lên bài kệ này:

i Namo te Buddha vīra’tthu – Vippamutto’si sabbadhi Sambādhapaṭipanno’smi – Tassa me saraṇaṁ bhavā’ti.

i. Đảnh lễ đấng Giác Ngộ, Bậc Anh Hùng muôn thuở, Ngài là bậc Giải Thoát, Thoát ly thật viên mãn, Còn con bị trói buộc, Hãy cho con quy ngưỡng.

Atha kho Bhagavā Sūriyaṁ devaputtaṁ ārabbha Rāhuṁ asurindaṁ gāthāya ajjhabhāsi.

Rồi Thế Tôn, vì Thiên tử Suriya, nói lên bài kệ này cho Ràhu, vua A-tu-la:

ii Tathāgataṁ Arahantaṁ – Suriyo saraṇaṁ gato Rāhu Sūriyaṁ pamuñcassu – Buddhā lokānukampakā’ti.

ii Suriya đã quy y, Như Lai bậc La-hán, Ràhu, hãy thả nó, Vì chư Phật thương đời. Ông đi giữa hư không,

iii Yo andhakāre tamasī pabhaṁkaro – Verocano, maṇḍalī uggatejo Mā Rāhu gilī caraṁ antalikkhe – Pajaṁ mama Rāhu, pamuñca Sūriyaṇ’ti.

iii Chớ nuốt Suriya, Trong thế giới tối tăm, Đã đem lại ánh sáng, Là mặt trời sáng chói, Là dĩa tròn hực đỏ, Là lò lửa cháy nóng, Là bà con của Ta. Này Ràhu, (Ta nói): Hãy thả Suriya.

Atha kho Rāhu asurindo Sūriyaṁ devaputtaṁ muñcitvā taramānarūpo yena Vepacitti asurindo ten’upasaṅkami. Upasaṅkamitvā saṁviggo lomahaṭṭajāto ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho Rāhuṁ asurindaṁ Vepacitti asurindo gāthāya ajjhabhāsi.

Rồi Ràhu, vua A-tu-la, giải thoát cho Thiên tử Suriya. Như bị hốt hoảng, Ràhu đi đến Vepacitti, vua A-tu-la run sợ, lông tóc dựng ngược và đứng một bên. Và Vepacitti, vua A-tu-la, nói lên bài kệ cho Ràhu, vua A-tu-la, đang đứng một bên:

iv Kinnu santaramāno’va – Rāhu, Sūriyaṁ pamuñcasi? Saṁviggarūpo āgamma – Kinnu bhīto’va tiṭṭhasī’ti?

iv Vì sao, như hốt hoảng, Ràhu, thả Suriya, Ông đến, lòng run sợ, Ông đứng, tâm kinh hoàng?

Sattadhā me phale muddhā – Jīvanto na sukhaṁ labhe Buddhagāthābhigīto’mhi – No ce muñceyya Suriyan’ti.

Đầu con bể thành bảy, Đời con không hạnh phúc, Với lời kệ đức Phật, Nếu không thả Suriya

11. Kinh Dhajaggam: ĐẦU LÁ CỜ (Dhajagga Paritta [1])  

Tôi nghe như vầy:Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "-- Này các Tỷ-kheo." "-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một cuộc chiến dữ dội khởi lên giữa chư Thiên và các Asùra. Rồi này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka gọi chư Thiên ở Tam thập tam thiên:

" -- Này thân hữu, khi các Ông lâm chiến, nếu sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên; lúc ấy, các Ông hãy nhìn nơi đầu ngọn cờ của ta. Khi các Ông nhìn lên đầu ngọn cờ của ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của ta, thời hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên cũng sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hãy ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna. Khi các Ông ngó lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, cũng sẽ tiêu diệt."

9 Này các Tỷ-kheo, khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên chủ Sakka, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Pajàpati, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Varuna, hay khi họ nhìn lên đầu ngọn cờ của Thiên vương Isàna, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược được khởi lên, có thể sẽ biến diệt và sẽ không biến diệt.

Vì cớ sao? Này các Tỷ-kheo, vì Thiên chủ Sakka chưa đoạn diệt tham, chưa đoạn diệt sân, chưa đoạn diệt si, còn nhát gan, hoảng hốt, hoảng sợ, hoảng chạy. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói như sau: Này các Tỷ-kheo, khi các Ông đi vào rừng, đi đến gốc cây hay đi đến nhà trống, nếu run sợ, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, trong khi ấy hãy niệm nhớ đến Ta: "Ngài là Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn". Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Ta, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên, sẽ được tiêu diệt.

Nếu các Ông không niệm nhớ đến Ta, hãy niệm nhớ đến Pháp: "Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, do người trí tự mình giác hiểu. Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến Pháp, thời sợ hãi, hoảng hốt hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt.

Nếu các Ông không niệm nhớ đến Pháp, hãy niệm nhớ đến chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Thiện hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Trực hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Chánh hạnh; chúng Tăng đệ tử Thế Tôn là bậc Như pháp hạnh, tức là bốn đôi, tám chúng. Chúng Tăng đệ tử này của Thế Tôn đáng được cúng dường, đáng được hiến dâng, đáng được bố thí, đáng được chấp tay, là vô thượng phước điền ở trên đời." Này các Tỷ-kheo, khi các Ông niệm nhớ đến chúng Tăng, thời sợ hãi, hoảng hốt, hay lông tóc dựng ngược có khởi lên sẽ tiêu diệt. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đã ly tham, ly sân, ly si, không nhát gan, không hoảng hốt, không hoảng sợ, không hoảng chạy.

Thế Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói vậy xong, bậc Ðạo Sư nói tiếp:

Này các vị Tỷ-kheo,
Trong rừng hay gốc cây,
Hay tại căn nhà trống,
Hãy niệm bậc Chánh Giác.
Các Ông có sợ hãi,
Sợ hãi sẽ tiêu diệt.
Nếu không tư niệm Phật,
Tối thượng chủ ở đời,
Và cũng là Ngưu vương,
Trong thế giới loài Người,
Vậy hãy tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết.
Nếu không tư niệm Pháp,
Hướng thượng, khéo tuyên thuyết,
Vậy hãy tư niệm Tăng,
Là phước điền vô thượng.
Vậy này các Tỷ-kheo,
Như vậy tư niệm Phật,
Tư niệm Pháp và Tăng,
Sợ hãi hay hoảng hốt,
Hay lông tóc dựng ngược,
Không bao giờ khởi lên.

Dhajagga Sutta

(The Discourse on the Crest of Banner)
- Protection against FEAR


Evam me sutam ekam samayam bhagava savatthiyam viharati jetavane anathapindikassa arame.

Tatra kho bhagava bhikkhu amantesi "bhikkhavo" ti, "bhaddante" ti te bhikkhu bhagavato paccassosum. bhagava etadavoca - bhutapubbam bhikkhave devasura sangamo samupabyulho ahosi. atha kho bhikkhave sakko devanamindo deve tavatimse amantesi - "sace marisa devanam sangamagatanam uppajjeyya bhayam va chambhitattam va lomahamso va, mameva tasmim samaye dhajaggam ullokeyyatha; mamam hi vo dhajaggam ullokayatam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissati.

No ce me dhajaggam ullokeyyatha, atha pajapatissa devarajassa dhajaggam ullokeyyatha. pajapatissa hi vo devarajassa dhajaggam ullokayatam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va, lomahamso va, so pahiyissati.

No ce pajapatissa devarajassa dhajaggam ullokeyyatha, atha varunassa devarajassa dhajaggam ullokeyyatha, varunassa hi vo devarajassa dhajaggam ullokayatam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissati.

No ce varunassa devarajassa dhajaggam ullokeyyatha atha isanassa devarajassa dhajaggam ullokeyyatha; isanassa hi vo devarajassa dhajaggam ullokayatam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissatiti.

tam kho pana bhikkhave sakkassa va devanamindassa dhajaggam ullokayatam, pajapatissa va devarajassa dhajaggam ullokayatam , varunassa va devarajassa dhajaggam ullokayatam, isanassa va devarajassa dhajaggam ullokayatam, yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyethapi no pahiyetha.

Tam kissa hetu sakko hi bhikkhave devanamindo avitarago avitadoso avitamoho bhiru chambhi utrasi palayiti.

Ahanca kho bhikkhave evam vadami, sace tumhakam bhikkhave arannagatanam va rukkha mulagatanam va sunnagaragatanam va uppajjeyya bhayam va chambhitattam va lomahamso va, mameva tasmim samaye anussareyyatha -

Iti pi so bhagava araham, sammasambuddho, vijjacaranasampanno, sugato, lokavidu, anuttaro purisa dammasarathi, sattha devamanussanam, buddho, bhagava" ti.

Mamam hi vo bhikkhave anussaratam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissati.

No ce mam anussareyyatha, atha dhammam anussareyyatha -

Svakkhato bhagavata dhammo, sanditthiko, akaliko, ehipassiko, opaneyyiko, paccattam veditabbo vinnuhi ti.

Dhammam hi vo bhikkhave anussaratam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissati

No ce dhammam anussareyyatha, atha samgham anussareyyatha -

Suppatipanno bhagavato savakasamgho, ujuppatipanno bhagavato savakasamgho, nayappatipanno bhagavato savakasamgho, samicippatipanno bhagavato savakasamgho, yadidam cattari purisayugani attha purisapuggala; esa bhagavato savakasamgho, ahuneyyo, pahuneyyo, dakkhineyyo, anjalikaraniyo, anuttaram punnakkhettam lokassa ti.

Samgham hi vo bhikkhave anussaratam yam bhavissati bhayam va chambhitattam va lomahamso va, so pahiyissati.

Tam kissa hetu tathagato hi bhikkhave araham sammasambuddho vitarago vitadoso vitamoho abhiru achambhi anutrasi apalayiti.

Idamavoca bhagava, idam vatvana sugato athaparam etadavoca sattha

Aranne rukkhamuleva, sunnagare va bhikkhavo. anussaretha sambuddham, bhayam tumhaka no siya.

No ce buddham sareyyatha, lokajettham narasabham; atha dhammam sareyyatha, niyyanikam sudesitam.

No ce dhammam sareyyatha, niyyanikam sudesitam; atha samgham sareyyatha, punnakkhettam anuttaram.

Evam buddham sarantanam, dhammam samghanca bhikkhavo; bhayam va chambhitattam va, lomahamso na hessati.

Dhajagga Suttam Nitthitam.

Here ends the Discourse on the Crest of the Banner.

12. Những Yếu Tố Giác Ngộ (Maha Kassapa Thera Bojjhanga [1])  

Evaṁ me sutaṁ. Ekaṁ samayaṁ Bhagavā Rājagahe viharati veḷuvane Kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena āyasmā Mahākassapo Pipphaliguhāyaṁ viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Tôn giả Kassapa trú ở hang Pipphalì, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.

Atha kho Bhagavā sāyanhasamayaṁ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā Mahākassapo tenupasaṅkami. Upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho Bhagavā āyasmantaṁ Mahākassapaṁ etadavoca.

Rồi Thế Tôn, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahà Kassapa; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống, Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Kassapa :

Kacci te Kassapa khamanīyaṁ? Kacci yāpanīyaṁ? Kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti no abhikkamanti? Paṭikkamosānaṁ paññāyati no abhikkamo? ’ti.

- "Này Kassapa, Ông có kham nhẫn được chăng ? Ông có chịu đựng được chăng ? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng ? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không có tăng trưởng?"

Na me Bhante khamanīyaṁ. Na yāpanīyaṁ. Bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti no paṭikkamanti. Abhikkamosānaṁ paññāyati no paṭikkamo’ti.

- Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, con không thể chịu đựng. Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không có giảm thiểu.

Satti’me Kassapa bojjhaṅgā mayā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattan’ti. Katame satta?

Này Kassapa, bảy giác chi này do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy ?

i-Sati sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

i-Niệm giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn

ii-Dhammavicaya sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

ii-Trạch pháp giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

iii-Viriya sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sabodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

iii-Tinh tấn giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. 

iv - Pīti sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

iv-Hỷ giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

v - Passaddhi sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

v-Khinh an giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

vi - Samādhi sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

vi - Định giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

vii - Upekkhā sambojjhaṅgo kho Kassapa, mayā sammadakkhāto bhāvito bahulīkato abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattati.

vii-Xả giác chi, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Ime kho kassapa, satta bojjhaṅgā mayā sammadakkhātā bhāvitā bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbāṇāya saṁvattantī’ti.

Bảy giác chi này, này Kassapa, do Ta chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

- Taggha Bhagava, bojjhaṅgā. Taggha Sugata, bojjhaṅgā’ti.

- Thật vậy, bạch Thế Tôn, chúng là giác chi. Thật vậy, bạch Thiện Thệ, chúng là giác chi.

Idama’voca Bhagavā. Attamano āyasmā Mahākassapo Bhagavato bhāsitaṁ abhinandi. Uṭṭhāhicā’yasmā Mahākassapo tamhā ābādhā. Tathā pahīnocā’yasmato Mahākassapassa so ābādho ahosī’ti.

Thế Tôn thuyết như vậy, Tôn giả Mahà Kassapa hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và Tôn giả Mahà Kassapa được thoát khỏi bệnh ấy. Bệnh ấy của Tôn giả Mahà Kassapa được đoạn tận như vậy.

13. Những Yếu Tố Giác Ngộ (Maha Moggallana Thera Bojjhanga [1])  

Tôi nghe như vầy: Vào một dịp nọ, Đức Thế Tôn đang sống gần Rajagaha trong khu rừng tre, nơi kiếm ăn của những con sóc. Vào thời điểm đó, Đại đức Maha Moggallana đang sống trên Đồi Gijjhakuta (Đỉnh Kền kền) bị mắc bệnh, đang bị bệnh nặng. Sau đó, Đức Thế Tôn phát xuất từ sự cô độc của mình trong buổi đến thăm Đại đức Maha Moggallana và ngồi xuống một chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn cho ngài. (Hoàn toàn giống như trong bài kinh trước, đổi từ "Maha Kassapa" thành "Maha Moggallana.")

14. Những Yếu Tố Giác Ngộ (Maha Cunda Thera Bojjhanga[1])  

Evam me sutam,
Như vầy tôi nghe:

ekam samayam Bhagavā Rājagahe viharati Veluvane Kalandakanivāpe. Tena kho pana samayena Bhagavā ābādhiko hoti dukkhito bālhagilāno.

Một thời Thế Tôn ở Vương Xá, rừng Trúc Lâm, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, Thế Tôn bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.

Atha kho āyasmā Mahācundo sāyanhasamayam, patisallānā vutthito yena Bhagavā ten’upasankami, upasankamitvā Bhagavantam abhivādetvā, ekamantam nisīdi.

Rồi Tôn giả Mahà Cunda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ekamantam nisinnam kho āyasmantam Mahācundam Bhagavā etadavoca.

Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Cunda đang ngồi một bên :

Patibhantu tam Cunda bhojjhangā’ti.

- Này Cunda, hãy thuyết về giác chi.

Sattime bhante bhojjhangā Bhagavatā sammadakkhātā, bhāvitā, bahulīkatā abhiññāya, sambodhāya nibbānāya samvattanti.Katame satta?

Bạch Thế Tôn, có bảy giác chi này do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Thế nào là bảy ?

1. Sati-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

1. Bạch Thế Tôn, niệm giác chi do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

2. Dhamma-vicaya-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

ii. Bạch Thế Tôn, trạch pháp giác chi, do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

3. Viriya-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

iii. Bạch Thế Tôn, tinh tấn giác chi, do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

4. Pīti-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

iv. Bạch Thế Tôn, hỷ giác chi, do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

5. Passaddhi-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

v. Bạch Thế Tôn, khinh an giác chi, do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

6. Samādhi-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

vi. Bạch Thế Tôn, Định giác chi,do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

7. Upekkhā-sambojjhango kho, bhante Bhagavatā sammadakkhāto, bhāvito, bahulīkato abhiññāya sambodhāya, nibbānāya, samvattati.

vii. Bạch Thế Tôn, xả giác chi, do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Bạch Thế Tôn, bảy giác chi này do Thế Tôn chơn chánh thuyết giảng, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Ime kho, bhante, satta bojjhangā Bhagavatā sammadakkhātā, bhāvitā, bahulīkatā abhiññāya sambodhāya nibbānāya samvattanti’ti.

Bảy yếu tố giác ngộ này, bhante, đã được Đức Thế Tôn giảng giải và trau dồi và phát triển đầy đủ. Chúng dẫn đến sự hiểu biết hoàn hảo, sự chứng ngộ đầy đủ và đến Niết-bàn. "

Taggha, Cunda bojjhangā, taggha, Cunda bojjhangā’ti.

"Chắc chắn nhất Cunda, chúng là những nhân tố của sự giác ngộ. Chắc chắn nhất, Cunda, chúng là những nhân tố của sự ngộ."

Idamavo cāyasmā Mahācundo Samanuñño Satthā ahosi. Vutthāhi ca Bhagavā tamhā ābādhā tathā pahīno ca Bhagavato so ābādho ahosī ti.

Như vậy, Đại đức Maha Cunda đã nói, và Đạo sư đã chấp thuận điều đó. Bấy giờ Đức Thế Tôn khỏi bệnh, và nhờ đó mà sự đau đớn của Ngài biến mất.

15. Kinh Girimananda Thera (Girimananda Sutta[1])  

Tôi nghe như vầy:Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimànanda bị bịnh, khổ đau, bị trọng bịnh. Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn :

-" Tôn giả Girimànanda, bạch Thế Tôn, bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Lành thay, nếu Thế Tôn đi đến Tôn giả Girimànanda, vì lòng từ mẫn."

- Này Ànanda, nếu Thầy đi đến Tỷ-kheo Girimànanda và đọc lên mười tưởng, thời sự kiện này có thể xảy ra : Tỷ-kheo Girimànanda sau khi được nghe mười tưởng bệnh của vị ấy có thể được thuyên giảm ngay lập tức !

"Thế nào là mười ?

Tưởng vô thường,
Tưởng vô ngã,
Tưởng bất tịnh,
Tưởng nguy hại,
Tưởng đoạn tận
Tưởng từ bỏ,
Tưởng đoạn diệt,
Tưởng nhàm chán đối với tất cả thế giới,
Tưởng vô thường trong tất cả hành,
Tương niệm hơi thở vô hơi thở ra.

i. Và này Ànanda, thế nào là tưởng vô thường ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng, hay đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau : "Sắc là vô thường, thọ là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường." Như vậy vị ấy trú, tùy quán vô thường, trong năm thú uẩn này. Này Ànanda, đây gọi là tưởng vô thường.

ii. Và này Ànanda, thế nào là tưởng vô ngã ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau : "Mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã ; tai là vô ngã, các tiếng à vô ngã ; mũi là vô ngã, các hương là vô ngã ; lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã ; thân là vô ngã, xúc là vô ngã ; ý là vô ngã, các pháp là vô ngã." Này Ànanda, đây gọi là tưởng vô ngã.

iii. Và này, thế nào là tưởng bất tịnh ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân trở lên, từ đỉnh tóc trở xuống, được da bao bọc, đầy những vật bất tịnh sai biệt như : "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, dây gân, xương, tủy, thận, quả tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước ở khớp xương, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy trú quán bất tịnh trong thân này. Này Ànanda, đây gọi là tưởng bất tịnh.

iv. Và này Ànanda, thế nào là nguy hại ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quán sát như sau : "Nhiều khổ là thân này, nhiều dự nguy hại. Như vậy trong thân này, nhiều lợi bệnh khởi lên. Ví như bệnh đau mắt, bệnh đau về tai, bệnh đau mũi, bệnh đau lưỡi, bệnh đau thân, bệnh đau đầu, bệnh đau vành tai, bệnh đau miệng, bệnh đau răng, bệnh ho, bệnh suyễn, bệnh sổ mũi, bệnh sốt, bệnh già yếu, bệnh đau yếu, bệnh đau bụng, bất tỉnh, kiết lỵ, bệnh đau bụng quặn, bệnh thổ tả, bệnh hủi, bệnh ung nhọt, bệnh ghẻ lở, bệnh ho lao, bệnh trúng gió, bệnh da, bệnh ngứa, bệnh da đóng vảy, bệnh hắc lào lang ben, bệnh ghẻ, bệnh huyết đảm (mật trong máu), bệnh đái đường, bệnh trĩ, bệnh mụt nhọt, bệnh ung thư ung loét, các bệnh khởi lên từ gió ; bệnh do hòa hợp các thể dịch sinh ra ; các bệnh do nghiệp thuần thục, lạnh, nóng, đói khát, đại tiện, tiểu tiện". Như vậy, vị ấy sống, quán sự nguy hại trong thân này. Này Ananda, đây gọi là các tưởng nguy hại.

v. Và này Ànanda, thế nào là tưởng đoạn tận ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo, không có chấp nhận dục tầm đã sanh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sanh trưởng ; không có chấp nhận sân tầm đã sanh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sanh trưởng ; không có chấp nhận hại tầm đã sanh, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sanh trưởng; không có chấp nhận các ác bất thiện pháp tiếp tục khởi lên, từ bỏ, tẩy sạch, chấm dứt, đi đến không sanh trưởng. Này Ànanda, đây được gọi tưởng đoạn tận.

vi. Và này Ànanda, thế nào là từ bỏ ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, duy xét như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn.

vii. Và này Ànanda, thế nào là tưởng đoạn diệt ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, suy xét như sau : "Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, Niết bàn".

viii. Và này Ànanda, thế nào là tưởng không ưa thích trong tất cả thế giới ? Ở đây, này Ànanda, phàm ở đời có những chấp thủ phương tiện, tâm quyết định, thiên kiến, tùy miên nào, Tỷ-kheo từ bỏ chúng, không ưa thích, không chấp thủ. Này Ànanda, đây gọi là tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế gian.

ix. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng vô thường trong tất cả hành ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo bực phiền, xấu hổ, nhàm chán đối với tất cả hành. Này Ànanda, đây gọi là vô thường trong tất cả hành.

x. Và này Ananda, thế nào là tưởng niệm hơi thở vào, hơi thở ra ? Ở đây, này Ànanda, Tỷ-kheo đi đến khu rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô ; chánh niệm, vị ấy thở ra.

Thở vô dài, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô dài". Thở ra dài, vị ấy rõ biết : "Tôi thở vô ngắn" ; hay thở ra ngắn, vị ấy rõ biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập.

"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập..

An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập..

'Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô,' vị ấy tập; 'cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra,' vị ấy tập.

Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập..

"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô, vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập..

"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, Tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập..

Giải phóng tâm (khỏi nivaranas, hay các triền cái), tôi sẽ thở vô, 'vị ấy tập,' giải phóng tâm trí tôi sẽ thở ra, 'vị ấy tập; 'Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn tiệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn tiệt, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập..

Này Ànanda, đó là niệm hơi thở vô, hơi thở ra.Này Ànanda, nếu Thầy đi đến Tỷ-kheo Girimànanda và đọc lên mười tưởng này, sự kiện này có xảy ra : Tỷ-kheo Girimànanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức".

Rồi Tôn giả Ànanda, sau khi học thuộc từ Thế Tôn mười tưởng này, đi đến Tôn giả Girimànanda, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Girimànanda mười tưởng này. Và Tôn giả Girimànanda, sau khi nghe mười tưởng này, bệnh của vị ấy được thuyên giảm ngay lập tức. Tôn giả Girimànanda, được thoát khỏi bệnh ấy. Được đoạn tận như vậy là chứng bệnh ấy của Tôn giả Girimànanda. Notes 1. Lit., fading.

16. Kinh Thôn Tiên (Isigili Sutta[1])  

Tôi nghe như vầy:Một thời Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá), trên núi Isigili. Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo" – "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :

– Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vebhara (Phụ Trọng) này không ?.

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vebhara này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Pandava (Bạch Thiện) này không ?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Pandava này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Vepulla (Quảng Phổ) này không ?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Vepulla này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Gijjhakuta (Linh Thứu) này không ?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

– Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là một danh xưng khác cho núi Gijjhakuta này, một tên gọi khác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy núi Isigili này không ?

– Thưa có thấy, bạch Thế Tôn.

Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có năm trăm vị Độc Giác Phật sống trong một thời gian khá dài, trong núi Isigili này. Những vị ấy được thấy đi vào trong ngọn núi này (nhưng) khi đi vào rồi thời không được thấy nữa. Quần chúng thấy vậy nói như sau : "Ngọn núi này nuốt những ẩn sĩ ấy (Ime Isi gilatiti) nên được danh xưng là Isigili.

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ kể tên các vị Độc Giác Phật; này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng tên các vị Độc Giác Phật. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói .

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn: – Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

Thế Tôn nói như sau :

– Arittha (A-lợi-sá), này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Uparittha (Bà-lợi-sá) này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này -Tagarasikhi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Yasassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Sudassana (Thiện Kiến), này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Piyadassi, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Gandhara, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Pindola, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Upasabha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Nitha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Tatha, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Sutava, này các Tỷ-kheo, là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này. -Bhavitatta, này các Tỷ-kheo là tên vị Độc Giác Phật đã trú lâu ngày trong núi Isigili này.

i. Chư hữu tình tinh hoa, Không khổ, không tham ái, Riêng tự mình chứng đắc, Chánh Đẳng Giác (vô thượng) Chư vị thượng thắng nhân, Vượt ngoài mũi tên bắn, Hãy lóng tai nghe kỹ, Ta sẽ xướng danh hiệu:

ii. Arittha, Uparittha, Tagarasikhi, Yasassi Sudassan, Phật Piyadassi Gandhara, Pindola, Upasabha, Nitha, Tatha, Sutava, Bhavitatta.

iii. Sumbha, Subha, Methula, Atthama, Athassumegha, Anigha, Sudatha Chư vị Độc Giác Phật, Đoạn trừ nguồn tái sanh. Hingu và Hinga Chư vị Đại Uy lực,

iv. Hai ẩn sĩ Jali Rồi đến Atthaka, Đức Phật Kosala, Tiếp đến Subahu. Ngài Upanemi, cả Ngài Nemi này, Ngài Santacitta, các Ngài bậc Chân thực, Sống như chân, ly trần, Cũng là bậc Hiền triết.

v. Kala, Upakala, Vijita, Jita Anga, Panga và Gutijjita Passi bỏ chấp thủ Căn rễ của khổ đau. Aparajita, đánh bại ma quân lực,

vi. Satthà, Pavatta, Sarabhanga, Lomahansa, Uccangamaya, Asita, Anasava, Manomaya đoạn trừ được nạn, Và Bandhuma, Tadadhimutta vô cấu uế, Và Ketuma.

vii. Ketumbaraga và Matanga Ariya, Accuta, Accutagama, Byamaka, Sumangala, Dabbila, Supatitthita Asayha, Khemabhirata và Sorata,

viii. Durannaya, Sangha, rồi đến Uccaya, Rồi đến ẩn sĩ Sayha, Với can đảm phi thường Ananda, Nanda, Upananda, Tất cả là mười hai. Bharadvaja thọ trì thân cuối cùng,

ix. Bodhi, Mahanama, kể cả Bharadvaja Thượng thắng, có chóp tóc và đẹp trai, Tissa, Upatissa, Upasidari Đã đoạn hữu kiết sữ, Và Sidari, đã đoạn trừ tham ái.

x. Đức Phật tên Mangala, Với tham được đoạn trừ, Usabha đã cắt lưới khổ căn. Upanita, vị chứng an tịnh đạo, Uposatha, Sundara, Saccanama,

xi. Jeta, Jayanta, Paduma, Uppala và Padumuttara, Rakkhita và Pabbata, Manatthaddha, Sobhita, Vitaraga, Và Đức Phật Kanha Với tâm được giải thoát.

xii. Những vị này, vị khác Là những bậc Độc Giác, Những bậc Đại Uy Lực, Đã đoạn nguồn tái sanh. Hãy đảnh lễ chư vị, Đại Ẩn sĩ vô lượng, Đã thắng mọi chiến trận, Đã đạt bát Niết-bàn.

17. Kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta [1])  

Bài Thuyết Pháp Đầu Tiên của Đức Phật

Trong bảy tuần ngay sau khi thành đạo, Đức Phật đã ngồi thiền định sưốt thời gian. Vào tuần thứ bảy, Ngài quyết định công bố giáo pháp (dhamma), Ngài đã nhận ra, cho năm nhà khổ hạnh năm vị Đạo Sĩ, anh em Kondanna (Kiều Trần Như), những người đã từng tu tập với Ngài để đạt được giác ngộ. Biết rằng họ đang sống tại Isipatana (Sarnath hiện đại), vẫn còn chìm trong sự khắc nghiệt không thể cứu vãn của thuyết khổ hạnh cực đoan, đạo sư rời Gaya, nơi Ngài đã đạt được giác ngộ, đến Varanasi, thành phố linh thiêng của Ấn Độ xa xôi. Ở đó tại vườn Lộc Uyển (Deer Park), Ngài đã nhập với họ.

Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana, chỗ Vườn Nai. Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm Tỷ-kheo:

Có hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai? Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỷ-kheo, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.

Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.

Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ tập cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ tập đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Khổ diệt đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt cần phải liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh. Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến khổ diệt đã được liễu tri, này các Tỷ-kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sanh, trí sanh, tuệ sanh, minh sanh, quang sanh.

Cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỷ-kheo, cho đến khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Đẳng Giác. Và cho đến khi nào, này các Tỷ-kheo, trong bốn Thánh đến này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy, tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các Tỷ-kheo, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri đã chánh giác vô thượng Chánh Đẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sanh nữa".

Điều này Đức Thế Tôn đã nói. Nhóm năm vị Tỳ-kheo vui mừng, và họ cũng vui mừng vì những lời của Đức Thế Tôn.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Chúng năm Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Phật dạy. Trong khi lời dạy này được tuyên bố, Tôn giả Kondanna khởi lên pháp nhãn thanh tịnh, không cấu uế như sau: "Phàm vật gì được tập khởi, tất cả pháp ấy cũng bị đoạn diệt".

Và khi Pháp luân này được Thế Tôn chuyển vận như vậy, chư Thiên cõi đất này lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở đời".

Sau khi được nghe tiếng của chư Thiên ở Tứ đại Thiên vương thiên, thời chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba... chư Thiên Yàmà... chư Thiên Tusità... chư Hóa lạc thiên... chư Tha hóa tự tại thiên... chư Thiên ở Phạm thiên giới lớn tiếng nói lên: "Nay vô thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn Nai, chuyển vận... bất cứ một ai ở đời".

Như vậy, trong sát-na ấy, trong khoảnh khắc ấy, trong giây phút ấy, tiếng ấy lên đến Phạm thiên giới. Và mười ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một hào quang vô lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên.

Rồi Thế Tôn thốt lên lời cảm hứng sau đây: "Chắc chắn đã giác hiểu là Kondanna (Kiều-trần-như)! Chắc chắn đã giác hiểu là Kondanna!" Như vậy Tôn giả Kondanna được tên là Annàta Kondanna (A-nhã Kiều-trần-như).

Với việc công bố Giáo pháp, lần đầu tiên, và với sự cải đạo của năm nhà khổ hạnh, Vườn Lộc Uyển tại Isipatana đã trở thành nơi ra đời của Khoá Phật (Buddha-sasana), và Tăng đoàn, cộng đồng các nhà sư, đệ tử xuất gia.

Hoàng đế Asoka, 281 năm sau sự kiện này, đã hành hương đến thánh địa này và cho xây dựng nhiều tượng đài và cột kỷ niệm với kinh đô sư tử được dựng lên. Thủ đô này với bốn con sư tử tráng lệ hộ trì "Pháp luân", "Bánh xe Pháp", hiện nằm trong bảo tàng Sarnath, và ngày nay là quốc huy chính thức của Ấn Độ. Lễ hội “Dharma-Cakra” vẫn được duy trì ở Sri Lanka (Tích Lan).

Jawaharlal Nehru, cố thủ tướng Ấn Độ, viết: "Tại Sarnath gần Benares, tôi gần như được thấy Đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên, và một số lời được ghi lại của ngài sẽ vang xa trong tôi suốt hai nghìn năm trăm năm. . Những cột đá có khắc chữ của Asoka sẽ nói với tôi bằng thứ ngôn ngữ tuyệt vời của họ và nói với tôi về một người, mặc dù là hoàng đế, nhưng vĩ đại hơn bất kỳ vị vua hay hoàng đế nào. " - Sự khám phá của Ấn Độ (The Signet Press, Calcutta), tr. 44.

18. Kinh Đại Hội (Maha-samaya Sutta[1])  

Như vầy tôi nghe:Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Đại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.

Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhàvàsa) suy nghĩ như sau: "Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sakka, thành Kapilavatthu, ở Đại Lâm, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn".^

Rồi chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn. Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:

Đại hội tại Đại Lâm Chư Thiên đồng tụ tập. Chúng con đến Pháp hội Đảnh lễ chúng Bất Thắng.

Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

Tại đây chúng Tỷ-kheo Thiền định, tâm chánh trực. Như chủ xe nắm cương, Bậc trí hộ các căn.

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn

Như khóa gãy, chốt tháo, Cửa trụ bị đào lên. Sống thanh tịnh, có mắt Như voi khéo điều phục.

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn

Những ai quy y Phật, Sẽ không đọa ác thú, Sau khi bỏ thân người, Sẽ sanh làm chư Thiên.

Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

5-6. Bài kệ Ta sẽ giảng Chư Thiên trú Thiên giới, Những vị trú hang núi, Tâm tịnh, an thiền định. Như sư tử, tuy nằm Làm hoảng sợ quần sanh, Tâm tư thuần tịnh bạch, Trong sáng, không cấu uế.

7. Biết hơn năm trăm vị, Họp tại Ca-tỳ-la Bậc Đạo Sư thuyết giảng Chúng đệ tử thích nghe:

8. "Các Tỷ-kheo, hãy xem Chư Thiên chúng đến gần". Nghe lời dạy đức Phật Đại chúng nhiệt tình xem.

9. Và hiện rõ ra trước chúng Thấy rõ hàng phi nhân Kẻ thấy trăm thiên thần, Ngàn thần, và hơn nữa. Kẻ thấy bảy mươi ngàn Toàn các bậc phi nhân.

10. Kẻ thấy vô lượng vị, Cùng khắp mọi phương hướng.

11. Với pháp nhãn thấy rõ Và phân biệt tất cả Bậc Đạo Sư thuyết giảng, Chúng đệ tử thích nghe:

12. "Các Tỷ-kheo hãy xem, Chư Thiên chúng đến gần". Ta sẽ theo thứ lớp Thuyết kệ cho người nghe.

13. Bảy ngàn loại Dạ-xoa Trú tại Ca-tỳ-la, Có thần lực hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

14. Sáu ngàn từ Tuyến Sơn Dạ-xoa đủ sắc mặt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo

15. Ba ngàn từ Sàtà, Dạ-xoa đủ sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

16. Như vậy mười sáu ngàn Dạ-xoa đủ sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

17. Năm trăm từ Vessà Dạ-xoa đủ sắc mặt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này,

18. Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo. Kumbhira, Vương Xá, Trú tại Vepulla, Hơn trăm ngàn Dạ-xoa, Hầu hạ vây xung quanh. Kumbhira, Vương Xá Cũng đến họp rừng này.

19-20. Vua Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương) Trị vì tại phương Đông, Chúa tể Càn-thát-bà Bậc đại vương danh tiếng. Vị này có nhiều con, Đại lực, tên Inda Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

21-22. Quốc vương Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương). Trị vì tại phương Nam, Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda) Bậc đại vương danh tiếng, Vị này có nhiều con, Đại lực, tên Inda Có thần lực, hào quang. Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo. Vua Virùpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)

23-24. Trị vì tại phương Tây, Chúa tể loài Nàgà Bậc đại vương danh tiếng. Vị này có nhiều con Đại lực, tên Inda, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

25-26. Quốc vương Kuvera, (Đa Văn Thiên vương) Trị vì tại phương Bắc, Chúa tể, loài Dạ-xoa, Bậc đại vương, danh tiếng. Vị này có nhiều con, Đại lực, tên Inda, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

27-28. Trì Quốc vương, phương Đông Tăng Trưởng vương, phương Nam Quảng Mục vương, phương Tây, Đa Văn vương, phương Bắc, Bốn bậc đại vương này, Khắp cả bốn phương trời, Cùng đứng, chói hào quang, Khắp rừng Ca-tỳ-la.

29. Cũng đến các bộ hạ, Giả dối và xảo quyệt, Màyà, Kutendu, Vetandu, Vitu,

30. Vituca, Candana, Kàmasettha, Kinnughandu, Nighandu chín vị đến. Panàda, Opamanna, Màtdi, (người đánh xe chư Thiên).

31. Càn-thát-bà Cittasena; Vua Nala, Janesabha Pancasikha, Timbarù, Suriyavaccasà cũng đến. Như vậy cả Cua chúa,

32. Cùng với Càn-thát-bà, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!

33. Tà Nàbhasa, Vesàli, Tacchakà, Các Nàgà cũng đến. Kambala, Assatara, Pàyàgà, Cũng đến với quyến thuộc.

34. Các Nàgà có danh tiếng, Dhatarattha và Yàmunà cũng đến. Eravana, Long vương,

35. Cũng đến tại ngôi rừng. Những thiên điểu nhị sanh, Với cặp mắt thanh tịnh, Mãnh liệt chống Long vương, Nay bay đến ngôi rừng. Tên chúng là Citrà, Và tên Supannà.

36. Long vương không sợ hãi, Nhờ ơn Phật an toàn Với những lời nhẹ nhàng, Chúng tự khuyên bảo nhau, Nàgà, Supannà (Kim Sí điểu) Đều đến quy y Phật.

37. Asura ở biển, Bị sét Kim Cang thủ, Anh của Vàsava, Có thần lực danh xưng.

38. Kàlakanjà, dị hình, (Tu-la) Dànaveghasà, Vepacitti Cùng với Sucitti, Với Pahàràda, ác quỷ Namucì.

39. Cùng con của Bali, Đặt tên Veroca. Huy động toàn quân lực, Dâng cho vị thủ lãnh. Ràhu nói: "Mong thay Pháp hội được an toàn. Phó hội chúng Tỷ-kheo Đều đến tại rừng này".

40. Thần nước, đất, lửa, gióa, Cũng đến Varunà, Với thủy tộc, Soma, Cả Yasa cũng đến. Chư Thiên Từ Bi sanh

41-42. Có danh xưng cũng đến Mười vị thiên tộc này Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

43. Venhù, Sahali, Asamà, Yamà, Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,

44. Vị thủ lãnh cũng đến. Chư Thiên thuộc Nhật tộc Vân thần tên Manda, Quần tinh vị thủ lãnh Vàsava, Vasù

45. Thần Sakka cũng đến. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng. Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

Sahavhù cũng đến, Với đầu lửa đỏ rực, Aritthakà, Rojà, Như bông hoa Ummà

48-49. Varunà, Sahadhammà, Accutà, Anejakà Sùleyya-rucirà, Vàsavanesi cũng đến. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

50. Samànà, Mahàsamànà, Mànusà, Mànusuttamà, Khiddà-padùsikà, Mano-padùsikà

51. Harayo, Lohita-vàsino, Pàragà, Mahà-Pàragà Có danh xưng cũng đến.

52. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng, Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

53. Sukkà, Karumhà, Arunà, Veghanasà Odàta-gayhà, Vicakkhanà cũng đến,

54. Sadàmattà, Hàragaja, Missakà có danh xưng cũng đến. Pajjunna thần sét, Làm mưa khắp mọi phương.

55. Mười vị Thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực hào quang, Có sắc tướng, danh xưng Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

56. Khemiyà, Tusità, Yamà, Danh xưng Katthakà, Lambitakà, Thủ lãnh các Làmà, Joti-nàmà, Àsava, Tha Hóa Tự tại thiên, Hóa Lạc thiên cũng đến.

57-58. Mười vị thiên tộc này, Dung mạo thật dị biệt, Có thần lực, hào quang, Có sắc tướng, danh xưng Hoan hỷ đến rừng này, Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

Sáu mươi Thiên chúng này, Với diện mạo dị biệt, Theo danh tộc chúng đến, Cũng nhiều vị khác nữa. Nói rằng: "Sanh đã tận, Then cài không còn nữa. Bộc lưu đã vượt qua, Đã thành bậc Vô Lậu. Chúng con thấy vị ấy, Như voi vượt bộc lưu, Như trăng thoát mây tối"

60. (Các vị Phạm Thiên đến nói:) "'Hãy để chúng ta xem (Tăng đoàn, các vị A-la-hán), những người đã siêu sinh, những người đã loại bỏ phiền não (tham, sân và si mê), những người đã vượt qua bốn dòng ( về lạc thú, trở thành, tà kiến và vô minh), [14] thoát khỏi tai ách. (Chúng ta cũng hãy nhìn thấy Đức Phật), người đã vượt qua suối, người được gọi là Naga (theo nghĩa là người không phạm tội ác) [ 15] và sáng như trăng khuyết. '

Các Phạm thiên Subrahma và Paramatta, đến (cùng với các Phạm thiên khác), những người sở hữu quyền năng iddhi, và các con trai (đệ tử của Đức Phật). Brahmas Sanankumara và Tissa cũng đến khu rừng (để xem hội chúng của các nhà sư).

62-63Subrahmà, Paramatta, Con các vị thần lực, Sanamkumàra Tissa, Đến hội tại ngôi rừng. Đại Phạm thiên, chúa tể, Ngự trị ngàn Phạm giới, Thác sanh có hào quang, Dị hình có danh xưng, Mười đấng Tự Tại đến, Ngự trị mỗi mỗi cõi, Giữa vị này Hàrita, Cũng đến với đồ chúng.

64. Tất cả đều cùng đến, Với Inda, Phạm thiên, Ma quân cũng tiến đến, Xem Hắc quỷ ngu si. "Hãy đến và bắt trói, Những ai bị tham triền,

65. Hãy bao vây bốn phía, Chớ để ai thoát ly!" Như vậy Đại Tướng quân, Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,

66-67Với bàn tay vỗ đất, Tiếng dội vang khiếp đảm. Như trong cơn giông tố, Sấm chớp và mưa rào, Nó liền thối quân lui, Phẫn nộ nhưng bất lực.

68. Với pháp nhãn thấy rõ, Và phân biệt tất cả, Bậc Đạo Sư thuyết giảng,

69. Chúng đệ tử thích nghe: "Ma quân đã tiến đến; Tỷ-kheo hãy biết chúng". Nghe lời dạy đức Phật, Đại chúng tâm nhiệt tình. Kẻ thù đã bỏ đi, Xa vô tham, vô úy.

70. Tất cả đều chiến thắng, Vô úy và vô xưng! Đệ tử những vị này, Danh xưng, tâm hoan hỷ.

19. Kinh Alavaka (Alavaka Sutta[1])  

Tôi nghe như vầy:


Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavakka. Rồi Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra! -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào

Lần thứ hai, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào.

Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi ra.

-- Này Sa-môn, hãy đi vào. -- Lành thay, Hiền giả. Thế Tôn nói và đi vào.

Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn: -- Này Sa-môn, hãy đi ra. -- Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm.

-- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi. Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng.

-- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn.

Sau đó Alavaka hỏi Đức Thế Tôn với bài kệ:

(Dạ-xoa):


Cái gì đối người đời,

Là tài sản tối thượng?

Cái gì khéo hành trì,

Ðem lại chơn an lạc?

Cái gì giữa các vị,

Là vị ngọt tối thượng?

Phải sống như thế nào,

Ðược gọi sống tối thượng?


10) (Thế Tôn):


Lòng tin đối người đời,

Là tài sản tối thượng.

Chánh pháp khéo hành trì,

Ðem lại chơn an lạc.

Chân lý giữa các vị,

Là vị ngọt tối thượng.

Phải sống với trí tuệ,

Ðược gọi sống tối thượng.


11) (Dạ-xoa):


Làm sao vượt bộc lưu?

Làm sao vượt biển lớn?

Làm sao siêu khổ não?

Làm sao được thanh tịnh?


12) (Thế Tôn):


Với tín, vượt bộc lưu.

Không phóng dật, vượt biển.

Tinh tấn, siêu khổ não.

Với Trí, được thanh tịnh.


13) (Dạ-xoa):


Làm sao được trí tuệ?

Làm sao được tài sản?

Làm sao đạt danh xưng?

Làm sao kết bạn hữu?

Ðời này qua đời khác,

Làm sao không sầu khổ?

            

(Thế Tôn):


Ai tin tưởng Chánh pháp

Của bậc A-la-hán,

Pháp ấy khiến đạt được,

Niết-bàn (chơn an lạc),


Khéo học, không phóng dật,

Minh nhãn khéo phân biệt,

Nhờ hành trì như vậy,

Vị ấy được trí tuệ.


Làm gì khéo thích hợp,

Gánh vác các trách nhiệm,

Phấn chấn, thích hoạt động,

Như vậy được tài sản,


Chơn thật đạt danh xưng,

Bố thí kết bạn hữu,

Ðời này qua đời khác,

Như vậy không sầu khổ.

Tín nam gia chủ nào,

Tìm cầu bốn pháp này,

Chơn thực và chế ngự,

Kiên trì và xả thí,

Vị ấy sau khi chết,

Không còn phải sầu khổ.

Ðời này qua đời khác,

Sau chết, không sầu khổ.

Ta muốn Ông đến hỏi,

Sa-môn, Bà-la-môn,

Có những pháp nào khác,

Tốt hơn bốn pháp này:

Chơn thực và chế ngự,

Xả thí và kham nhẫn.

            

15) (Dạ-xoa):


Làm sao nay ta hỏi,

Sa-môn, Bà-la-môn,

Khi nay ta được biết,

Nguyên nhân của đời sau.

Phật đến Alavi,

Thật lợi ích cho ta.

Nay ta được biết rõ,

Cho gì được quả lớn.

Làng này qua làng khác,

Thành này qua thành khác,

Ðảnh lễ Phật Chánh Giác,

Cùng đảnh lễ Chánh pháp,

Các vị chứng Pháp tánh.

Sau khi nói như vậy, Alavaka thưa với Đức Thế Tôn:

"Thật tuyệt với, Thưa Tôn Giả Gotama, là lời dạy của Ngài, tuyệt vời nhất. Giống như con người dựng đứng những gì bị lật ngược, tiết lộ những gì được che giấu, dẫn đường cho một kẻ lạc lối, mang một ngọn đèn dầu vào bóng tối để những người có mắt có thể nhìn thấy các vật thể; ngay cả như vậy Giáo pháp (giáo lý) đã được tuyên bố theo nhiều cách bởi Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama nhận tôi làm đệ tử đã quy y, kể từ ngày này trở đi trong khi tuổi thọ vẫn còn. "

20. Kinh Cày Ruộng (Kasibharadvaja Sutta[1])  

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Magadha, trên núi Nam Sơn, tại làng Bà-la-môn tên Ekanàlà. Lúc bấy giờ là thời gian gieo mạ, và Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja sắp đặt sẵn sàng khoảng năm trăm lưỡi cày. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến nông trường của Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja đang phân phát đồ ăn. Thế Tôn đi đến chỗ phân phát đồ ăn, rồi đứng một bên. Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja thấy Thế Tôn đang đứng một bên để khất thực, thấy vậy, bèn nói với Thế Tôn:

Này Sa-môn, tôi cày và tôi gieo mạ; sau khi cày và gieo mạ, tôi ăn. Này Sa-môn, Ông có cày và gieo mạ không; sau khi cày và gieo mạ, Ông ăn?

Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn.

Nhưng chúng tôi không thấy cái ách, cái cày, cái lưỡi cày, cái gậy đâm, hay các con bò đực của Tôn giả Gotama. Tuy vậy Tôn giả Gotama lại nói như sau: "Này Bà-la-môn, Ta cũng có cày và gieo mạ, sau khi cày và gieo mạ, Ta ăn".

Rồi Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja nói lên bài kệ với Thế Tôn:

"1. Ông nói là nông phu, Ta không thấy Ông cày, Người nông phu được hỏi, Hãy lên tiếng trả lời, Sao chúng tôi biết được, Ông thật sự có cày?"

Đức Thế Tôn:


Lòng tin là hạt giống, Khổ hạnh là mưa móc, Trí tuệ đối với Ta, Là cày và ách mang, Tàm quý là cán cày, Ý căn là dây cột,

Chánh niệm đối với Ta, Là lưỡi cày, gậy đâm. Thân hành được hộ trì, Khẩu hành được hộ trì Đối với các món ăn, Bụng Ta dùng vừa phải, Ta nhổ lên (tà vạy),

Với chơn lý sự thật, Hoan hỷ trong Niết-bàn Là giải thoát của Ta. Tinh tấn đối với Ta, Là khả năng mang ách, Đưa Ta tiến dần đến, An ổn khỏi ách nạn,

Đi đến, không trở lui, Chỗ Ta đi, không sầu. Như vậy, cày ruộng này, Đưa đến quả bất tử, Sau khi cày cày này, Mọi đau khổ được thoát.

Sau đó, Bà la môn Kasibharadvaja đổ đầy một cái bát vàng bằng gạo sữa dâng lên Đức Thế Tôn và nói rằng: "Xin Tôn giả Gotama được chia phần gạo sữa này; thực sự là một người thợ cày, chính là Tôn giả Gotama, người đã cày một cái cày để đạt được quả vị Bất thối chuyển (Nibbana).

[Thế Tôn:]

6. Ta không có hưởng thọ, Vì tụng hát kệ chú, Thường pháp không phải vậy, Đối vị có tri kiến. Chư Phật đã loại bỏ, Tụng hát các kệ chú, Chơn thật đối với Pháp, Sở hành là như vậy.

7. "Bậc Đại Sĩ vẹn toàn, Cúng dường phải khác biệt, Đoạn tận các lậu hoặc, Trạo hối được lắng dịu, Với những bậc như vậy, Cơm nước phải cúng dường. Thật chính là phước điền, Cho những ai cầu phước.."

"Bà La Môn, trong thế giới của chư Thiên, Maras và Brahmas hoặc trong số thế hệ ẩn dật, brahmanas, các vị Chư Thiên và con người, không có ai cơm sữa này, nếu ăn, có thể được tiêu hóa hoàn toàn ngoại trừ Như Lai ( Phật), hoặc đệ tử của Như Lai. Vì vậy, hãy bỏ cơm sữa này vào nơi không có cỏ, hoặc xuống nước nơi không có sinh vật sống.

Sau đó, vị bà la môn đổ cơm sữa đó vào nước nơi không có sinh vật nào sống, và cơm sữa ném vào nước bốc khói và sôi tạo ra tiếng ồn "cicchita, citicita," giống như lưỡi cày được đốt nóng vào ban ngày, khi ném vào nước, sôi lên và hơi nước tạo ra tiếng ồn "cicchita, citicita."

Bấy giờ, bà la môn Kasibharadvaja, hoảng hốt, tóc dựng đứng, đến gần, gục đầu dưới chân Đức Thế Tôn và nói như sau.

Thật là tuyệt vời, Tôn giả Gotama, lời dạy của Ngài, thật là tuyệt vời. Giống như con người dựng đứng những gì bị lật ngược, tiết lộ những gì bị che giấu, chỉ đường cho một kẻ lạc lối, mang đèn dầu vào bóng tối để những người có mắt có thể nhìn thấy các vật thể, ngay cả Giáo pháp (giáo lý) đã như vậy. đã tuyên bố theo nhiều cách của Tôn giả Gotama. Con xin quy y Tôn giả Gotama (Đức Phật), trong Giáo pháp và trong Tăng đoàn (Tăng đoàn). Con xin được thọ giới Sa di (pabbajja) và thọ giới cao hơn (upasampada). "

Bà La Môn Kasibharadvaja đã được thọ giới pabbajja và upasampada từ Đức Thế Tôn. Không lâu sau khi Bharadvaja đáng kính ở một mình và xa cách, siêng năng, vất vả và kiên quyết, từ lâu, bằng sự sáng suốt của chính mình, ở đây và bây giờ, đã nhận ra và đạt được sự hoàn hảo cao nhất (quả vị A la hán), sự kết thúc của Đời sống Cao quý - cho lợi ích của việc những người đàn ông của một gia đình tốt ra khỏi nhà để sống cuộc sống không gia đình. Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa'. Tôn giả Bharadvaja trở thành một trong những vị A la hán.

21. Kinh Bại Vong (Parabhava Sutta[1])  

Sau khi nghe bài giảng về Phước lành (kinh Hạnh Phúc, xem ở trên) đề cập đến những điều có xu hướng đến sự hao mòn và thịnh vượng của con người, các vị thần tự nghĩ: “Đức Phật đã nói với chúng ta về những phước lành nhưng không nói về sự xuống dốc và suy tàn của con người; điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đến gần Đức Phật và chất vấn Ngài về những điều có xu hướng sụp đổ. " Vì vậy, một ngày sau khi được Đức Phật giảng dạy về Phước lành, các vị thần đã đến gặp Đạo sư và hỏi những câu hỏi này. (Comy)

Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhơn, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn với những bài kệ:

1. Thiên nhân: Về bại vong con người, Con hỏi Gotama, Con đến hỏi Thế Tôn, Cửa vào của bại vong?

2. Thế Tôn: Thật dễ hiểu thành công, Thật dễ hiểu bại vong, Ưa mến pháp, thành công, Thù ghét pháp bại vong.

3. Thiên nhân: Như vậy, chúng con rõ, Thứ nhất về bại vong, Thứ hai, mong Ngài nói, Cửa vào của bại vong?

4. Thế Tôn: Ai mến kẻ bất thiện, Không ái luyến bậc thiện, Thích pháp kẻ bất thiện, Chính cửa vào bại vong.

5. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ hai khiến anh ta bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ ba. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong ?.

6. Người tánh ưa thích ngủ, Thích hội chúng, thụ động, Biếng nhác, thường phẫn nộ, Chính cửa vào bại vong.

Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ ba khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ tư. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong ?

8. Ai với mẹ hay cha, Già yếu, tuổi trẻ hết, Tuy giàu không giúp đỡ, Chính cửa vào bại vong.

9. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ tư khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ năm. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

Ai nói dối lường gạt, Sa-môn, Bà-la-môn, Hay các khất sĩ khác, Chính cửa vào bại vong.

11. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ năm khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ sáu. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

12. Người giàu có tài sản, Có vàng bạc thực vật, Hương vị ngọt một mình, Chính cửa vào bại vong.

13. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ năm khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ sáu. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

14. Người tự hào về sanh, Về tài sản dòng họ, Khinh miệt các bà con, Chính cửa vào bại vong.

15. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ bảy khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ tám. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

16. Người đắm say nữ nhân, Ðắm say rượu, cờ bạc, Hoang phí mọi lợi đắc, Chính cửa vào bại vong.

17. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ tám khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ chín. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

18. Không vừa đủ vợ mình, Ðược thấy giữa dâm nữ, Ðược thấy với vợ người, Chính cửa vào bại vong.

19. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ chín khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ mười. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

20. Người tuổi trẻ đã qua, Cưới cô vợ vú tròn, Ghen nàng không ngủ được, Chính cửa vào bại vong.

21. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ mười khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ mười một. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

22. Ðàn bà, hay đàn ông, Rượu chè, tiêu hoang phí, Ðược địa vị quyền thế, Chính cửa vào bại vong.

23. Chúng con hiểu điều này như Ngài đã giảng dạy; đây là nguyên nhân thứ mười một khiến bại vong. Bạch Đức Thế Tôn, hãy nói cho chúng con biết điều thứ mười hai. Nguyên nhân dẫn đến sự bại vong

24. Tài sản ít, ái lớn, Sanh gia đình hoàng tộc, Ở đây muốn trị vì, Chính cửa vào bại vong.

25. "Nhận ra đầy đủ (mười hai) nguyên nhân dẫn đến sự bại vong, nhà hiền triết, được trời phú cho trí tuệ ariyan, chia sẻ một cảnh giới Niết-bàn (Nibbana).

22. Kinh Kẻ Bần Tiện (Vasala Sutta[1])  

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvathi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực. Lúc bấy giờ, tại trú xứ của Bà-la-môn Aggikabhàradvàja, lửa tế lễ được đốt cháy, đồ cúng dường được dâng cao. Rồi Thế Tôn, trong khi thứ lớp khất thực ở Sàvatthi, đi đến trú xứ của Bà-la-môn Aggibhàradvàja. Bà-la-môn Aggibhàradvàja thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy bèn nói với Thế Tôn: - Ở đây kẻ trọc đầu, ở đây kẻ Sa-môn ti tiện, ở đây kẻ bần tiện, hãy đứng lại. Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Aggibhàradvàja: - Này Bà-la-môn, Người có biết người bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện không? - Này Tôn giả Gotama, tôi không biết kẻ bần tiện hay những pháp tạo ra kẻ bần tiện. Lành thay, nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp như thế nào cho tôi, để tôi được biết về kẻ bần tiện hay các pháp tạo thành kẻ bần tiện.

- Vậy này Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

Thưa vâng, Tôn giả! Bà-la-môn Aggibhàradvàja vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

1. "Người phẫn nộ, hiềm hận, Ác nhân, gièm pha người, Ác tà kiến, man trá, Ðược biết là bần tiện.

2. "Ai ở đây hại vật, Một sanh, hoặc hai sanh, Không thương xót hữu tình, Ðược biết là bần tiện.

3. "Ai làm hại vây hãm, Các làng, các thị trấn, Kẻ cướp đoạt có tiếng, Ðược biết là kẻ bần tiện.

4. Tại làng hay tại rừng, Vật sở hữu của người, Lấy trộm của không cho, Ðược biết là kẻ bần tiện.

5. Ai vay nợ của người, Bị đòi liền trốn tránh, Ta đâu mắc nợ ngươi, Ðược biết là kẻ bần tiện.

6. "Ai vì ham vật mọn, Kẻ đang đi trên đường, Giết hại cướp vật mọn, Ðược biết là kẻ bần tiện.

7. "Ai vì mình, vì người, Hay vì nhân tài sản, Làm nhân họ nói láo, Ðược biết là kẻ bần tiện.

8. "Ai được thấy giữa vợ Của bà con, bạn thân, Ép buộc hay ưng thuận, Ðược biết là kẻ bần tiện.

9. "Ai với mẹ hay cha, Già yếu, tuổi trẻ qua, Tuy giàu không giúp đỡ, Ðược biết là kẻ bần tiện.

10." Ai với mẹ hay cha, Với anh chị, nhạc mẫu, Làm hại, dùng lời mắng, Ðược biết là kẻ bần tiện.

11. "Ai được hỏi mục đích, Lại khuyên lời trái đích, Khuyên bảo nên che đậy, Ðược biết là kẻ bần tiện.

12. "Ai làm các nghiệp ác, Muốn không biết mình làm, Ai làm hạnh che đậy, Ðược biết là kẻ bần tiện.

13. "Ai đến nhà người khác, Ăn món ăn ngon lành, Lại không đáp lễ lại, Ðược biết là bần tiện.

14. "Ai nói dối lường gạt, Sa-môn, Bà-la-môn, Hay các người nghèo khác, Ðược biết là bần tiện.

15. "Dùng lời mắng, không cho, Sa-môn, Bà-la-môn, Khi thời ăn uống đến, Ðược biết là bần tiện.

16. "Ở đời nói không thật, Bị si mê che đậy, Tham cầu chút lợi nhỏ, Ðược biết là bần tiện.

17. "Ai đề cao tự ngã, Khi miệt giá trị người, Hạ mình với tự cao, Ðược biết là bần tiện.

18. "Ai gây hấn, hà tiện, Ác dục và xan tham, Xảo quyệt, không tàm quí, Ðược biết là bần tiện.

19. Ai phỉ báng đức Phật, Hay đệ tử của Ngài, Hàng xuất gia, tại gia, Ðược biết là bần tiện.

20. Ai không phải La-hán, Tự nhận là La-hán, Kẻ trộm Phạm thiên giới, Chính tối hạ bần tiện. Những hàng bần tiện này, Ta nói rõ cho Ông.

21. Bần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành, thành bần tiện, Do hành, thành Phạm chí.

22. "Do đây, nên hiểu biết, Như Ta trình bày rõ, Màtanga được danh, Bần tiện, ăn thịt chó.

23. Danh tối thượng khó đạt, Màtanga đạt được, Nhiều Sát-ly, Phạm chí, Ðến hầu hạ vị ấy.

24. "Vị ấy leo thiên xa, Trên đường lớn không bụi, Từ bỏ mọi dục tham, Ðạt được Phạm thiên giới, Thọ sanh không ngăn chận, Vị ấy sanh Phạm thiên.

25. "Có những Bà-la-môn, Sanh gia đình Ðạo sư, Hay sanh những gia đình Quyến thuộc với bùa chú, Họ vẫn thường được thấy, Làm các điều ác nghiệp,

26. Hiện tại bị khinh miệt, Ðời sau sanh ác thú, Thọ sanh không ngăn chận, Sanh ác thú đáng khinh.

27. Bần tiện không vì sanh, Phạm chí không vì sanh, Do hành thành bần tiện, Do hành thành Phạm chí.

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Bhàradvàja bạch Thế Tôn: - Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, ví như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, mở toang ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày. Con nay qui y Tôn giả Gotama, qui y Pháp và qui y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời qui ngưỡng.

23. Kinh Phân biệt về sự thật (Saccavibhanga Sutta[1])  

Như vầy tôi nghe:Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở Baranasi (Ba la nại), Isipatana (chỗ chư Tiên đọa), tại Migadaya (Lộc Uyển). Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Vô thượng Pháp luân đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba-la-nại. Không một Sa-môn, Bà-là-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ bốn Thánh-đế.

Thế nào là bốn? Sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Tập khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Khổ diệt Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Khổ diệt đạo Thánh đế. Vô thượng Pháp luân, này các Tỷ-kheo, đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại. Không một Sa-môn, Bà-la-môn... hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ bốn Thánh-đế.

Này các Tỷ-kheo, hãy thân cận Sariputta và Moggallana, Này các Tỷ-kheo, hãy gần gũi Sariputta và Moggallana; các vị ấy là những Tỷ-kheo hiền trí (pandita), là những vị sách tấn các đồng Phạm hạnh. Như một sanh mẫu, này các Tỷ-kheo, như vậy là Sariputta! Như một dưỡng mẫu, như vậy là Moggalana! Này các Tỷ-kheo, Sariputta hướng dẫn đến quả Dự lưu, còn Moggallana hướng dẫn đến tối thượng nghĩa. Này Tỷ-kheo, Sariputta có thể khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt hiển lộ một cách rộng rãi bốn Thánh đế.

Thế Tôn nói như vậy; nói như vậy xong, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá. Tại đấy, Tôn giả Sariputta, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: "Này chư Hiền". -- "Thưa vâng, Hiền giả".

Tôn giả Sariputta nói như sau:

-- Chư Hiền, Vô thượng Pháp luân đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại. Không một Sa-môn, Bà-là-môn, chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ bốn Thánh-đế.

Thế nào là bốn? Sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ Khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Tập khổ Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Khổ diệt Thánh đế; sự khai thị, tuyên thuyết... về Khổ diệt đạo Thánh đế. Vô thượng Pháp luân, này các Tỷ-kheo, đã được Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác chuyển vận ở vườn Lộc Uyển, chỗ chư Tiên đọa, tại Ba la nại. Không một Sa-môn, Bà-la-môn... hay một ai ở đời có thể chận đứng, chuyển vận ngược lại, tức là sự khai thị, tuyên thuyết, thi thiết, kiến lập, mở rộng, phân biệt, hiển lộ về Khổ diệt đạo Thánh đế.

Và này chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, (bệnh là khổ), chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ; cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.

Này chư Hiền, thế nào là sanh? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh của chúng, sự xuất hiện các uẩn, sự hoạch đắc các căn. Này chư Hiền, như vậy gọi là sanh.

Này chư Hiền, thế nào là già? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới loại, sự niên lão, sự hủ hoại, trạng thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy hoại. Này chư Hiền, như vậy gọi là già.

Này chư Hiền, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến, các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này chư Hiền, như vậy gọi là chết.

Này chư Hiền, thế nào là sầu? Này chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự sầu của người ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là sầu.

Này chư Hiền, thế nào là bi? Này chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự bi ai, sự bi thảm, sự than van, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là bi.

Này chư Hiền, thế nào là khổ? Này chư Hiền, sự đau khổ về thân, sự không sảng khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ. Này chư Hiền, như vậy gọi là khổ.

Này chư Hiền, thế nào là ưu? Này chư Hiền, sự đau khổ về tâm, sự không sảng khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này chư Hiền, như vậy gọi là ưu.

Này chư Hiền, thế nào là não? Này chư Hiền, với những ai gặp tai nạn này hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay sự đau khổ khác, sự áo não, sự bi não, sự thật vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là não.

Này chư Hiền, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này chư Hiền, chúng sanh bị sanh chi phối, khởi sự mong cầu: "Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối! Mong rằng ta khỏi phải đi thác sanh". Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ.

Này chư Hiền, như thế nào là tóm lại, năm thủ uẩn là khổ? Như sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này chư Hiền, như vậy gọi là tóm lại, năm thủ uẩn là khổ."Và này chư Hiền, như vậy gọi là là Khổ Thánh đế"

Này chư Hiền, thế nào là Khổ tập Thánh đế? Sự tham ái đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia; như dục ái, hữu ái, vô hữu ái. Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế.

Này chư Hiền, và thế nào là Khổ diệt Thánh đế? Sự diệt tận không còn luyến tiếc tham ái ấy, sự xả ly, sự khí xả, sự giải thoát, sự vô nhiễm (tham ái ấy). Này chư Hiền, như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế.

Này chư Hiền, thế nào là Khổ diệt đạo Thánh đế? Ðó là Thánh đạo tám ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Này chư Hiền, thế nào là chánh tri kiến? Này chư Hiền, tri kiến về Khổ, tri kiến về Khổ tập, tri kiến về Khổ diệt, tri kiến về Khổ diệt đạo. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tri kiến.

Này chư Hiền, thế nào là chánh tư duy? Tư duy về ly dục, tư duy về vô sân, tư duy về bất hại. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tư duy.

Này chư Hiền, thế nào là chánh ngữ? Tự chế không nói láo, tự chế không nói hai lưỡi, tự chế không ác khẩu, tự chế không nói lời phù phiếm. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh ngữ.

Này chư Hiền, thế nào là chánh nghiệp? Tự chế không sát sanh, tự chế không trộm cắp, tự chế không tà dâm. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh nghiệp.

Này chư Hiền, thế nào là chánh mạng? Này chư Hiền, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh mạng.

Này chư Hiền, và thế nào là chánh tinh tấn? Này chư Hiền, ở đây Tỷ-kheo, đối với các ác, bất thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các ác, bất thiện pháp đã sanh, khởi lên ý muốn trừ diệt; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp chưa sanh, khởi lên ý muốn khiến cho sanh khởi; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Ðối với các thiện pháp đã sanh khởi, khởi lên ý muốn khiến cho an trú, không cho băng hoại, khiến cho tăng trưởng, phát triển, viên mãn; vị này nỗ lực, tinh tấn, quyết tâm, trì chí. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh tinh tấn.

Này chư Hiền, thế nào là chánh niệm? Này chư Hiền, ở đây, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời... quán thọ trên các cảm thọ... quán tâm trên các tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh niệm.

nhiệt tâm.(như trên)

tỉnh giác. (như trên)

chánh niệm. (như trên)

Và thế nào là chánh niệm? Ở đây, một tỳ khưu xa rời ham muốn giác quan, xa rời những ý nghĩ bất thiện, đạt được và an trụ trong sự thiền định đầu tiên (jhana) được sinh ra từ sự tách rời và đi kèm với tư tưởng ứng dụng, tư tưởng duy trì, niềm vui và hạnh phúc.

Bằng cách an tịnh tâm được áp dụng và duy trì, hành giả đạt được và an trụ trong thiền thứ hai, đó là sự tĩnh lặng bên trong, là sự nhất tâm (của tâm trí), không có tư tưởng áp dụng và duy trì, và có hỉ và lạc.

Hành giả rời lạc, vị ấy an trú trong sự tĩnh lặng, chánh niệm, và tỉnh giác và hưởng phúc lạc trong thân, và đạt được và an trụ trong thiền thứ ba mà các bậc Thánh (ariyas) gọi là: 'Cư trú trong sự tĩnh lặng, chánh niệm và hạnh phúc.'

Bằng cách từ bỏ hạnh phúc và đau khổ, bằng sự biến mất của niềm vui và nỗi buồn, vị ấy đạt đến và an trụ trong thiền thứ tư, không phải là đau khổ cũng không phải là phúc lạc, và đó là sự thanh tịnh của chánh niệm bình đẳng. Đây được gọi là chánh định

Đây được gọi là Đạo đế của Con đường đưa đến diệt khổ.

Bánh xe Pháp Luân đã được Đức Thế Tôn Giác ngộ, ở Vườn Lộc Uyển, ở Isipatana gần Varanasi, chứ không thể được thành lập bởi một người ẩn dật hoặc một thánh thần tối thượng hoặc vị thiên hoặc bởi bất kỳ ai trên thế giới. Có nghĩa là, đó là một sự thật tuyên bố Tứ Diệu Đế, Đức Phật đã giác ngộ và sau đó giảng dạy, khai mở, phân tích và làm sáng tỏ chúng.

Điều này Tôn giả Sariputta đã nói. Những vị tỳ khưu đó trong lòng vui mừng hoan hỷ trước những lời của Tôn giả Sariputta.

24. Kinh A-sá-nang-chi (Atanatiya Sutta[1])  

Như vậy tôi nghe.: 24. Kinh A-sá-nang-chi (Atanatiya Sutta[1])  

Như vậy tôi nghe.:

Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), núi Gijjhakùta (Linh Thứu).

Bốn Thiên vương sau khi sắp đặt trấn giữ bốn phương với đại quân Yakkha (Dạ-xoa), đại quân Gandhabba (Càn-thát-bà), đại quân Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) và đại quân Nàga (Na-già), án ngữ bốn phương, bảo trì bốn phương, trong đêm tối thâm sâu, với hào quang tuyệt diệu chói sáng toàn thể núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Các vị Dạ-xoa, có vị đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên những lời chúc tụng, hỏi thăm, rồi ngồi xuống một bên; có vị nói lên tên họ rồi ngồi xuống một bên; có vị im lặng, rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi ngồi xuống một bên, đại vương Vessavana (Tỳ-sa-môn) bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn có những thượng phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn, Bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn; bạch Thế Tôn, có những trung phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn, có những hạ phẩm Dạ-xoa tin tưởng Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nhưng phần lớn các Dạ-xoa không tin tưởng Thế Tôn. Vì sao vậy?

Bạch Thế Tôn. Thế Tôn thuyết pháp để từ bỏ sát sanh, thuyết pháp để từ bỏ trộm cắp, thuyết pháp để từ bỏ tà dâm, thuyết pháp để từ bỏ nói láo, thuyết pháp để từ bỏ không uống các loại rượu.

Bạch Thế Tôn, tuy vậy phần lớn các Dạ-xoa đều không từ bỏ sát sanh, không từ bỏ trộm cắp, không từ bỏ tà dâm, không từ bỏ nói láo, không từ bỏ uống các loại rượu. Ðối với họ, Pháp ấy không được ưa thích, không được đón mừng.

Bạch Thế Tôn, có những đệ tử của Thế Tôn, sống trong chốn thâm sâu cùng cốc, ít tiếng, ít động, có gió mát từ ngoài đồng thổi, che dấu không cho người thấy, thích hợp tịnh tu. Tại chỗ ấy, có những thượng phẩm Dạ-xoa không tin tưởng lời dạy Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, hãy học chú Atànàtiyarakkha (A-sá-nang-chi Hộ Kinh) để họ được lòng tin, để các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ có thể sống an lạc, được che chở, được hộ trì không bị tại họa.

Thế Tôn im lặng chấp thuận. Rồi đại vương Vessavana, biết được Thế Tôn đã chấp thuận, trong giờ phút ấy, đọc lên bài Atànàtiya Hộ Kinh:

1. Ðảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi), Sáng suốt và huy hoàng! Ðảnh lễ đấng Sikhi (Thi-khí) Có lòng thương muôn loài!

2. Ðảnh lễ Vessabha (Tỳ-xá-bà), Thanh tịnh, tu khổ hạnh! Ðảnh lễ Kakusandha (Câu-lâu-tôn), Vị nhiếp phục ma quân!

3. Ðảnh lễ Konàgamana, (Câu-na-hàm) Bà-la-môn viên mãn! Ðảnh lễ Kassapa (Ca-diếp), Vị giải thoát muôn mặt!

4. Ðảnh lễ Angirasa, Vị Thích tử huy hoàng, Ðã thuyết chơn diệu pháp, Diệt trừ mọi khổ đau!

5. Ai yểm ly thế giới, Nhìn đời đúng như chơn, Vị ấy không hai lưỡi, Bậc vĩ đại thanh thoát.

6. Cùng đảnh lễ Gotama, Lo an lạc Nhơn Thiên Trì giới đức viên mãn! Bậc vĩ đại thanh thoát!

7-8. Mặt trời sáng mọc lên, Vầng thái dương tròn lớn, Khi mặt trời mọc lên, Ðêm tối liền biến mất. Khi mặt trời mọc lên Liền được gọi là ngày. Biển cả hải triều động, Như hồ nước thâm sâu.

9. Ở đấy mọi người biết, Chính biển cả hải triều, Dân chúng gọi phương ấy Là phương Purimà, (phương Đông).

10. Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương danh xưng, Chư loài Càn-thát-bà, Danh gọi Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương).

11. Càn-thát-bà hầu quanh, Hưởng múa hát của họ. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên,

12-13. Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!

14-15. Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".

16-18. Họ được gọi Peta, Nói hai lưỡi, sau lưng, Sát sanh và tham đắm, Ðạo tặc và man trá, Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Dakkhinà (phương Nam). Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương, danh xưng, Chủ loài Kumbhanda (Cưu-bàn-trà) Danh gọi Virùlhaka (Tỳ-lâu-lặc). Kumbhanda hầu quanh, Hưởng múa hát của họ.

19. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên, Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda.

20. Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát.

21-22. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân! Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".

23-24. Mặt trời sáng lặn xuống, Vầng thái dương trong lớn. Khi mặt trời lặn xuống. Ban ngày liền biến mất. Khi mặt trời lặn xuống, Liền được gọi là đêm. Biển cả hải triều động, Như hồ nước thâm sâu,

25. Ở đây mọi người hết, Chính biển cả hải triều, Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Pacchimà (phương Tây).

26. Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương, danh xưng. Chủ các loài Nàgà, Danh Virùpakkha (Tỳ-lâu-bác-xoa).

27. Loài Nàgà hầu quanh, Hưởng múa hát của họ. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên,

28-29. Tám mươi và mười một, Ðại lực, danh Inda. Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa, họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Ðảnh lễ bậc Siêu Nhân! Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!

30-31. Thiện tâm nhìn chúng con, Phi nhơn cũng lễ Ngài". Ðã nhiều lần, nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy, "Quý vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Ðảnh lễ Gotama, Bậc trí đức viên mãn".

32. Bắc Lô Châu (Uttarakurù) an lạc Ðại Neru (Tu-di) đẹp đẽ. Tại đấy, mọi người sống Không sở hữu, chấp trước.

33. Họ không gieo hột giống, Không cần phải kéo cày. Loài người được thọ hưởng Lúa chín khỏi nhọc công.

34. Loại gạo không cám trấu, Thanh tịnh có hương thơm, Ðược nấu chín trên đá, Và họ ăn gạo ấy.

35. Chỉ cỡi loài bò cái, Ði phương này phương khác. Chỉ dùng các loài thú Ði phương này phương khác.

36-37. Dùng xe đàn bà kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe đàn ông kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe con gái kéo, Ði phương này phương khác. Dùng xe con trai kéo, Ði phương này phương khác.

38. Họ lên trên các xe, Ði khắp mọi phương hướng,

39. Ðể phục vụ vua mình. Họ cỡi xe voi kéo, Xe ngựa, xe chư Thiên, Ðối với vua danh xưng, Có lâu đài, có kiệu, Nhiều thành phố của vua, Ðược xây giữa hư không.

Các thành Àtannata, Kusinata, Parakusinàtà, Nàttapuriyà, Parakusitannàtà Kapivanta thuộc phía Bắc, Và các thành phố khác, Như Janogha, Navanavatiya, Ambara, Ambaravatiya, Àlakamandà, Là kinh đô của vua, Chỗ Kuvera ở. Vị vua đáng kính này, Kinh đô tên Visànà. Do vậy Kuvera, Được danh Vessavana. Các sứ quán được tên: Tatolà, Tattalà, Tatotalà, Ojasi, Tejasi, Tatojasi, Vua Sùra, Arittha, Nemi. Đây có vùng nước lớn, Từ đây mưa đổ xuống, Được tên Dharani. Tại đây mưa đổ xuống, Được tên Dharani. Tại đây có giảng đường, Tên Bhagalavati, Chỗ Dạ-xoa tập hội.

40. Tại đây nhiều cây trái, Trên cây chim tụ họp, Các loại công, loại cò, Diệu âm chim Kokilà,

41. Ở đây, chim Jiva, Kêu tiếng "Hãy sống đi", Và tiếng chim kêu lên, "Hãy khởi tâm thích thú". Nhiều loại chim sai khác, Ở rừng và ở hồ,

42. Với con vẹt ồn ào, Và con chim Myna, Các loại chim thần thoại, Gọi là Dandamànavakà. Hồ sen Kuvera, Chiếu sáng tất cả trời,

43-44. Dân chúng gọi phương ấy, Là phương Uttarà (phương Bắc). Vị trị vì phương ấy, Bậc đại vương danh xưng, Chủ các loài Dạ-xoa, Được gọi Kuvera. Các Dạ-xoa hầu quanh, Hưởng múa hát của chúng.

45. Vua này có nhiều con, Ta nghe chỉ một tên. Tám mươi và mười một Đại lực danh Inda.

46. Họ chiêm ngưỡng Thế Tôn, Thuộc giòng họ mặt trời. Từ xa họ lễ Phật, Bậc vĩ đại thanh thoát. "Đảnh lễ bậc Siêu nhân, Đảnh lễ bậc Thượng nhân,

47-48. Thiện tâm nhìn chúng con. Phi nhân cũng lễ Ngài". Đã nhiều lần nghe hỏi, Nên đảnh lễ như vậy: "Các vị xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Chúng con xin đảnh lễ, Gotama chiến thắng! Đảnh lễ Gotama, Bậc Trí đức viên mãn!"

Tôn giả, Hộ Kinh Àtànàtiya này che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.

Khi một vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ nào sẽ học Hộ Kinh Àtanatiya này một cách chín chắn, rõ ràng, nếu có loài phi nhân nào, Dạ-xoa, Dạ-xoa-ni, con trai Dạ-xoa, con gái Dạ-xoa, đại thần Dạ-xoa-ni, tùy tùng của Dạ-xoa, hay lao công của Dạ-xoa; hoặc Càn-thát-bà... hoặc Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)... hoặc Nàga... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ khi vị này đi; đứng gần, khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, thời này Tôn giả, vị phi nhân ấy trong làng hay trong đô thị sẽ không được ai đón mừng hay kính trọng. Này Tôn giả, phi nhân ấy, trong kinh đô Alakamada của Ta sẽ không tìm được đất đai hay chỗ ở. Vị phi nhân ấy sẽ không được đi dự hội giữa các Dạ-xoa. Này Tôn giả, vị phi nhân ấy sẽ không được cưới hỏi. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dùng những lời nói hỗn láo xấc xược đối với vị ấy. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ dìm đầu vị ấy xuống. Này Tôn giả, các hàng phi nhân sẽ chẻ đầu vị ấy ra làm bảy mảnh.

Này Tôn giả, có hàng phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Chúng không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các phi nhân này được xem là thù nghịch của các bậc đại vương. Này Tôn giả, như các đại tướng cướp vua xứ Magadha bị chinh phục. Cũng vậy, các vị này không nghe lời các vị đại vương, không nghe lời đình của thần các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần của các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị đại tướng cướp này được xem là kẻ thù nghịch của vua xứ Magadha - cũng vậy, này Tôn giả, có những vị phi nhân hung bạo, dữ tợn, khủng khiếp. Các vị này không nghe lời các đại vương, không nghe lời đình thần của các vị đại vương, không nghe lời các vị giúp việc cho các đình thần các vị đại vương. Này Tôn giả, các vị phi nhân này được xem là kẻ thù nghịch của các bậc đại vương.

Này Tôn giả, nếu có vị phi nhân nào, Dạ-xoa hay Dạ-xoa-ni nào... đi theo vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ hay Nữ cư sĩ khi vị này đi, đứng gần khi vị này đứng; ngồi khi vị này ngồi; nằm khi vị này nằm với tâm niệm độc ác, vị này hãy nói lên, kêu lên, van lên với các những vị Dạ-xoa ấy, đại Dạ-xoa ấy, quân sư, đại quân sư ấy: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".

Những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sự, đại quân sư nào được kêu gọi ở đây:

49. Inda, Soma, và Varuna,

Bhàradvaja, Pajàpati,

Candana, Kàmasettha,

Kinnughandu, Nighandu,


50. Panàda và Opamanna,

Devanita và Màtali,

Cittasena và Gandhabba.

Vua Nala, Janesabha,


51. Sàtàgira Hemavata,

Punnuaka, Karatiya, Gula,

Sivakat và Mucalinda

Vessàmitta, Yugandhara,

52. Gopàla và Suppagedha,

Hirì, Settì và Mandiya,

Pancàla Canda, Àlavaka,

Pajjunna, Sumana, Sumukha, Dadhimukha

Mani Mànicara, Dìgha,

Atha và Serissaka.

Những vị này là những Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, quân sư, đại quân sư cần phải được nói lên, kêu lên, van lên: "Dạ-xoa này bắt tôi, Dạ-xoa này tấn công tôi, Dạ-xoa này đả thương tôi, Dạ-xoa này hại tôi, Dạ-xoa này làm hại tôi, Dạ-xoa này không thả tôi ra".

Này Tôn giả, đây là Hộ Kinh Àtànàtiyà che chở, hộ trì, ngăn không cho ai làm hại các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ và khiến các vị này sống an lạc.

Thưa Tôn giả, nay chúng tôi cần phải đi, chúng tôi có nhiều việc, có nhiều bổn phận.

- Đại vương, Đại vương hãy làm điều gì Đại vương nghĩ là phải thời.

Rồi bốn vị đại vương, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về phía Ngài rồi biến mất tại đấy. Các vị Dạ-xoa ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, có vị đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên những lời hỏi thăm xã giao với Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị chấp tay hướng đến Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ; có vị nói lên tên họ của mình rồi biến mất tại chỗ; có vị im lặng biến mất tại chỗ.

Rồi Thế Tôn sau khi đêm đã mãn, liền gọi các vị Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, khi hôm, bốn vị đại vương cùng với đại quân sư Dạ-xoa: "Đảnh lễ Vipassi (Tỳ-bà-thi) sáng suốt và huy hoàng; Đảnh lễ đấng Sikhi, (Thi-khí) có lòng thương muôn loài... Này Tôn giả, đó là hộ kinh Àtànàtiyà... như trên... rồi biến mất". Này các Tỷ-kheo, hãy học Hộ Kinh Atànàtiyà này, hãy thuộc lòng Kinh Àtànàtiyà này. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ được che chở, được hộ trì, được ngăn khỏi ai làm hại, được sống thoải mái hạnh phúc.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo ấy hoan hỷ thọ trì lời dạy Thế Tôn.

Kinh Thánh Hộ Trì hết tại đây

Phụ Lục  

Kinh Angulimala (Angulimala Paritta)


Phụ Lục  
Kinh Angulimala (Angulimala Paritta)
Tôn giả Angulimala, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Savatthi để khất thực. Trong khi đi khất thực từng nhà một ở Savatthi, Tôn giả Angulimala thấy một người đàn bà đang sanh đẻ, rất là nguy kịch và đau đớn. Thấy vậy, Tôn giả suy nghĩ: "Thật đau khổ thay các chúng sanh! Thật đau khổ thay các chúng sanh! " Rồi Tôn giả Angulimala, sau khi đi khất thực ở Savatthi, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn trình bày sự việc. Đức Thế Tôn dạy: Ông hãy đi đến Savatthi, sau khi đến hãy ngồi trên một chiếc ghế cách cô ta một bức bình phong, nói với người đàn bà ấy như sau: "Này Bà chị, vì rằng tôi từ khi được Thánh sanh đến này chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn và sanh đẻ được an toàn!" Và người đàn bà được an toàn, sanh đẻ được an toàn. Hiệu quả của kinh Thánh Paritta Angulimala vẫn hiệu lực cho đến ngày nay.

Bài kinh này không nằm trong "Kinh Thánh Hộ Trì." Những lời, được nói ra bởi Đức Phật bằng cách bảo vệ, và được học bởi Đại đức Angulimala, được tìm thấy trong Kinh Angulimala sutta (Majjhima nikaya, sutta no. 86).

Chính nước rửa chỗ ngồi của người trì tụng paritta này đã chấm dứt mọi nguy hiểm. Vào thời điểm đó, paritta này đã giúp đỡ một đứa trẻ sơ sinh được sinh ra an toàn.

Bây giờ chúng ta sẽ đọc lại câu paritta rất hiệu nghiệm đó được phát ra bởi Đấng Bảo vệ thế giới (Đức Phật), điều tốt lành cho mọi thời đại.[1]

""Thưa Bà chị, vì rằng tôi từ khi được Thánh sanh đến nay chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sanh, mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn, và sanh đẻ được an toàn!""


Sagge kāme ca rū pe girisikharatate cantalikkhe vimāne
Dīpe raṭṭthe ca gāme taruvanagahane gehavatthumhi khette
Bhummā cāyantu devā jalathalavisame yakkhagan-dhabbanāgā
Tiṭṭhantā santike yaṃ munivaravacanaṃ sādhavo me suṇantu.

Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.
Dhammassavanakālo ayambhadantā.

Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới, Chư Thiên ngự trên đỉnh núi, núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi đất liền hoặc các châu quận, ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn, Chư Dạ xoa, Càn Thác Bà cùng Long vương dưới nước trên bờ hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời nào là lời kim ngôn cao thượng của Đức Thích Ca Mâu Ni mà chúng con tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy..

Xin các Ngài đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp Bảo.
Xin các Ngài Đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp Bảo.
Xin các Ngài Đạo đức, giờ này là giờ nên nghe Pháp Bảo. (Lạy).

Vào cuối mỗi bài giảng, những người đọc thuộc lòng sẽ ban phước cho người nghe như vầy:

Với niềm tin vào sự thật này, bạn sẽ mãi mãi khỏe mạnh. Với niền tin vào sự thật này, bạn sẽ khỏi bệnh. Với niềm tin của sự thật này, tất cả các phước lành sẽ đến với bạn. Với sức mạnh (hộ trì) của tất cả các vị Phật, các vị Phật Độc Giác và tất cả các vị A la hán, tôi đảm bảo sự bảo vệ của tôi (của bạn) bằng mọi cách.

(Bài kệ được đọc vào lúc sợi giây chỉ đang được buộc quanh cánh tay của người tham dự.)

Cầu mong mọi điều không may được xua đuổi, cầu mong mọi bệnh tật chấm dứt; xin cho không có tai họa nào xảy đến với bạn; cầu mong bạn sống lâu trong bình yên.

Cầu mong tất cả các phước lành đến với bạn. Cầu mong tất cả Chư Thiên bảo vệ bạn.

Nhờ sức mạnh bảo vệ của tất cả các vị Phật, sự an lành đến với bạn.

Nhờ sức mạnh bảo vệ của tất cả các Pháp, sự an lành đến với bạn

Nhờ sức mạnh bảo vệ của tất cả các Tăng chúng, sự an lành đến với bạn

Nhờ sức mạnh của kinh Thánh Hộ Trì này, bạn sẽ thoát khỏi mọi nguy hiểm phát sinh từ ảnh hưởng xấu của các hành tinh, ma quỷ và linh hồn. Cầu mong những bất hạnh của bạn tan biến.

Nhờ quyền năng của Đức Phật, tất cả những điềm báo xấu xa và những hoàn cảnh tồi tệ, tiếng kêu đáng sợ của loài thú dữ, những liên tưởng ác ý của các vì sao, và những giấc mơ xấu xa sẽ bị xóa bỏ.

Bằng sức mạnh của Giáo pháp tất cả những điềm báo xấu xa và những hoàn cảnh tồi tệ, tiếng kêu đáng sợ của loài thú dữ, những liên tưởng ác ý của các vì sao, và những giấc mơ xấu xa sẽ bị xóa bỏ

Bằng sức mạnh của Tăng tất cả những điềm báo xấu xa và những hoàn cảnh tồi tệ, tiếng kêu đáng sợ của loài thú dữ, những liên tưởng ác ý của các vì sao, và những giấc mơ xấu xa sẽ bị xóa bỏ

Cầu mong những chúng sinh đang đau khổ được thoát khỏi đau khổ.

Cầu mong những chúng sinh đang sợ hãi được thoát khỏi sự sợ hãi

Cầu mong những chúng sinh đang đau buồn được thoát khỏi đau buồn.

Cầu mong những cơn mưa rơi đúng mùa; cầu mong có một mùa màng bội thu; cầu mong thế giới thịnh vượng; cầu mong người cai trị công bình.

Cầu mong các chúng sinh, trên trời và trên đất, chư Thiên và thần Nagas của sức mạnh hùng mạnh, chia sẻ công đức này của chúng ta. Mong họ bảo vệ sự miễn trừ lâu dài

Cầu mong tất cả chúng sinh chia sẻ công đức mà chúng ta đã có được. Có thể sẽ tìm lại hạnh phúc của họ.

Với công  đức này chia đến người thân của tôi; mong rằng họ được khỏe mạnh và hạnh phúc.

Từ cảnh giới cao nhất của sự hiện hữu đến địa ngục, bất cứ chúng sinh nào được sinh ra - những người có hình hài và vô hình, những người có hay không có ý thức - đều có thể thoát khỏi đau khổ! Cầu mong họ đạt được Niết-bàn!

Nhờ sức mạnh của công đức to lớn mà tôi đã có được bằng cách bày tỏ lòng tôn kính đối với "Tam bảo" (Phật, Pháp, Tăng) là một bậc đáng được tôn kính, cầu mong mọi nguy hiểm sẽ chấm dứt!